Đối với mỗi quốc gia, tên quốc gia là tên đại diện cho quốc gia đó trên trường quốc tế. Khẩu hiệu thể hiện mục tiêu mà đất nước theo đuổi trên con đường xây dựng và phát triển đất nước. Trong bài viết này, hãy tìm hiểu về pháp luật Việt Nam quy định việc sử dụng tên nước và tiêu ngữ.
Cơ sở pháp lý
– Nghị quyết 351/2017/ubtvqh14.
1. Tên của đất nước là gì?
Tên nước là tên chính thức của một nước, một quốc gia.
Tên quốc gia Tiếng Anh là: “national name”.
2. Các giai đoạn lịch sử tên nước Việt Nam:
văn lang: Tồn tại 2671 năm (2876 TCN – 258 TCN. Được coi là quốc hiệu đầu tiên của Việt Nam.
Âu Lạc:Âu Lạc được thành lập vào năm 257 TCN bởi sự kết hợp của các bộ tộc Việt (văn lang) và Âu Việt.
Wen Xuan: là tên gọi của Việt Nam trong thời kỳ độc lập ngắn ngủi dưới sự lãnh đạo của Li Nande. Quốc hiệu này tồn tại từ năm 544 đến năm 602.
Đa Việt Việt: là tên nước Việt Nam từ thời Đinh đến đầu Lê, do vua Đinh đặt ra năm 968. Tên nước này tồn tại 86 năm cho đến năm 1054. lý thanh tông đổi quốc hiệu.
Ngày Việt: là quốc hiệu của Việt Nam từ thời nhà Lý, bắt đầu từ khi Lý Thừa Tông lên ngôi năm 1054. Danh hiệu này tồn tại không liên tục (7 năm vào thời nhà He và 20 năm vào nhà Minh), cho đến năm 1804, sau các triều đại Li, Chen, Li, Mo và Xishan, khoảng 743 năm.
đại ngu: là quốc hiệu của Việt Nam thời nhà Hồ, bắt đầu từ năm 1400. Từ “foo” ở đây có nghĩa là “hòa bình, hòa bình”.
Việt Nam: Tên nước Việt Nam chính thức xuất hiện từ thời nhà Nguyễn. Hoàng đế Gia Long yêu cầu nhà Thanh công nhận danh hiệu Nanyue. Tuy nhiên, cái tên Nanyue trùng với tên của đất nước Nanyue cổ đại trong thời kỳ triệu triều. Nhà Thanh yêu cầu Nguyên đổi lại thành Việt Nam để tránh nhầm lẫn. Tiêu đề đã được công bố vào năm 1804.
Tuy nhiên, vào thời điểm đó, cái tên Việt Nam có thể đã xuất hiện sớm hơn. Cuối thế kỷ 14 có bộ sách “Việt Nam Sử Ký”, và bộ “Dư Địa” đầu thế kỷ 15 đã nhiều lần nhắc đến chữ “Việt Nam”. Ruan Kongqian cũng đã đề cập rõ ràng về điểm này trong các tác phẩm của mình. Trên một số bia thuộc thế kỷ 16 – 17 cũng tìm thấy hai chữ “Việt Nam” như bia chùa Bảo Lâm Hải Dương (1558), bia chùa Cam Lộ Hà Nội (1590), bia chùa Cam Lộ Hà Nội (1590). của chùa phúc thành. (1664) ở Bắc Ninh… đặc biệt là tấm bia Tùy Mông Quán (1670) ở biên giới Lạng Sơn, câu đầu ghi: “Việt Nam hầu mất, trấn bắc hải quan”.
Việt Nam Dân chủ Cộng hòa: Việt Nam Dân chủ Cộng hòa là tên gọi của cả nước Việt Nam từ năm 1945 đến năm 1954. pháp luật. Ngày 8 tháng 3 năm 1949. Năm 1955, Ngô Đình Diệm phế truất Bảo Đại và thành lập chính phủ Việt Nam Cộng Hòa.
Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam: Ngày 30 tháng 4 năm 1975, miền Nam được giải phóng. Ngày 2 tháng 7 năm 1976, tại kỳ họp Quốc hội đầu tiên của nước Việt Nam thống nhất, Quốc hội đã nhất trí lấy tên nước là Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Hiến pháp năm 1980 và 1992 đã xác nhận thêm tên quốc gia, khiến nó trở thành tên chính thức hợp pháp và trên thực tế, vẫn được sử dụng cho đến ngày nay.
3. Tiêu đề là gì?
Tiêu đề là những cụm từ tóm tắt các mục tiêu, động cơ hoặc ý định chung của một nhóm xã hội hoặc tổ chức.
title Tiếng Anh là: “crest”
4. Ý nghĩa tục ngữ Việt Nam:
Từ năm 1945 đến nay (từ nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa đến nước Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam), tiêu đề và cách diễn đạt “Độc lập-Tự do-Hạnh phúc” viết tên nước Việt Nam không thay đổi; bản chất và ý nghĩa lịch sử to lớn.
Hồ Chí Minh gọi đó là “Tam chính sách”. Người phát ngôn: “Chính phủ cố gắng thực hiện ba chính sách: dân sinh, dân quyền và dân quyền. Chúng tôi không muốn gì cả, nhưng chúng tôi cũng chịu thiệt thòi không kém”. đất nước, đây là điều tôi muốn, đây là điều tôi hiểu” đã tìm ra con đường dẫn đến cách mạng vô sản.
“Độc lập” là giải phóng dân tộc khỏi ách nô lệ, là “thức tỉnh, đoàn kết, biết chết hơn đầu hàng, được tự do, đoàn kết, đấu tranh chống kẻ áp bức, trù dập mình” .” “Độc lập” trên con đường cách mạng triệt để”, tức là “kiên trì đến cùng, tức là sau cách mạng phải giao chính quyền cho đông đảo nhân dân chứ không giao cho ít người”, “nghĩa là nhân dân được hưởng hạnh phúc tự do, bình đẳng thực sự chứ không phải tự do bình đẳng giả tạo”. Nền “độc lập” của Việt Nam trong Cách mạng Tháng Tám năm 1945 đã “giải phóng nhân dân ta khỏi xiềng xích của chế độ quân chủ và thực dân… lập nên một nền dân chủ cộng hòa và cơ sở thống nhất để nhân dân ta giành được độc lập”. “Độc lập” của cả dân tộc sau chiến thắng càng củng cố quyết tâm “thà hy sinh tất cả chứ không chịu làm nô lệ”
Tuy nhiên, “độc lập”, “tự do”, “hạnh phúc” không tách rời nhau mà phải gắn bó hữu cơ, biện chứng với nhau, vừa là điều kiện, vừa là mục tiêu cuối cùng.
“Tự do”, “hạnh phúc” là kết quả của “độc lập”, nhưng đó phải là độc lập dân tộc kết hợp với chủ nghĩa xã hội, bởi “chỉ có chủ nghĩa cộng sản mới cứu được loài người, trả lại cho mọi người không phân biệt nòi giống, nguồn gốc quyền tự do, bình đẳng, huynh đệ, đoàn kết, hạnh phúc trên trái đất, làm việc cho mọi người, niềm vui, hòa bình, hạnh phúc.” Nói “tự do”, “hạnh phúc” có nghĩa là người dân được hưởng đầy đủ đời sống vật chất và đời sống tinh thần do chính quyền chăm lo. để theo đuổi công lý. “Tự do”, “hạnh phúc” cơ bản nhất trong câu nói của Hồ Chí Minh là “đồng bào ai cũng có cơm ăn áo mặc, ai cũng được học hành”; đời sống ấm no, giàu sang… Dưới chế độ dân chủ cộng hòa, pháp luật đảm bảo điều kiện sống của mọi người. công dân.Tự cải thiện cuộc sống của mình thúc đẩy tính độc lập của cá nhân và sự phát triển toàn diện, quyền mưu cầu hạnh phúc và phúc lợi xã hội của con người đã trở thành quyền của công dân, mỗi công dân và toàn xã hội đều có nghĩa vụ và trách nhiệm chung.
Vậy để giải thích vì sao 6 chữ “độc lập-tự do-hạnh phúc” lại cần 3 chữ không thể tách rời, có gạch nối, vừa là điều kiện, vừa là mục đích của nhau. Từ năm 1945, “đồng bào Việt Nam không phân biệt nam nữ, già trẻ, giàu nghèo, tôn giáo, nòi giống, đoàn kết một lòng, giữ vững độc lập, mưu cầu tự do hạnh phúc” là trách nhiệm và quyền lợi của “toàn thể đồng bào Việt Nam”.
Độc lập-tự do-hạnh phúc là những quyền cao nhất của con người được quy định trong Hiến chương Liên hợp quốc và các công ước quốc tế về quyền con người, nhưng những quyền này chỉ được thực hiện ở các quốc gia độc lập.
Độc lập, tự do, hạnh phúc là khát vọng và quyền lợi cháy bỏng của mỗi con người, mỗi dân tộc. Trong hàng nghìn năm dựng nước và giữ nước của dân tộc Việt Nam, độc lập, tự do, hạnh phúc là khát vọng, là đấu tranh và hy sinh của biết bao thế hệ. Với Việt Nam, từ ngày 2-9-1945 khi Chủ tịch Hồ Chí Minh đọc Tuyên ngôn Độc lập đến nay, 75 năm sau ngày nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa ra đời, độc lập-tự do-hạnh phúc luôn ở bên Việt Nam. Quốc hiệu Việt Nam khẳng định giá trị to lớn và ý nghĩa vĩnh cửu của sáu chữ quý này, trong dự thảo văn kiện trình Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ 13 của Đảng Cộng sản Trung Quốc, hạnh phúc hiện được coi là một điểm sáng.
5.Quy định về việc sử dụng quốc hiệu, khẩu hiệu:
Chính sách sử dụng tên quốc gia
Tên nước là: “Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam”.
Tên quốc gia xuất hiện bằng chữ in hoa, cỡ chữ từ 12 đến 13, in đậm, kiểu chữ đứng ở trên cùng và bên phải của trang đầu tiên của tài liệu.
QUY ĐỊNH SỬ DỤNG TIÊU ĐỀ
Tiêu đề là: “Độc lập-Tự do-Hạnh phúc”.
Các chức danh được trình bày bằng chữ in thường, cỡ chữ từ 13 đến 14, kiểu chữ đứng, đậm, ngay dưới Quốc huy; các cụm từ viết hoa, giữa các cụm từ có dấu gạch ngang (-), giữa các chữ có dấu cách; phía dưới có gạch ngang, nét liền, độ dài bằng độ dài của dòng chữ.
Có phải mọi hợp đồng đều cần tên quốc gia không?
Theo Điều 117 Bộ luật Dân sự, điều kiện có hiệu lực của hợp đồng là:
-Chủ thể có năng lực hành vi dân sự, có năng lực hành vi dân sự, có năng lực hành vi dân sự.
– Chủ thể tham gia giao dịch dân sự là hoàn toàn tự nguyện.
– Mục đích, nội dung của giao dịch dân sự không vi phạm điều cấm của luật, không vi phạm đạo đức xã hội.
Như vậy, hình thức của hợp đồng chỉ là điều kiện để hợp đồng có hiệu lực. Hiện nay, trong số các văn bản pháp luật khác, không có yêu cầu rằng hợp đồng phải có tên quốc gia và phương châm. Vì vậy, việc hợp đồng không có tên nước, phương châm không phải là điều kiện để vô hiệu hợp đồng.