Phân tích hình ảnh thơ tứ tuyệt trong bài thơ Việt Bắc (dàn ý – 10 bài văn mẫu). Đây là một chi tiết rất đặc biệt của thơ trắng Việt Nam, thường thấy trong các đề thi. Cùng xem bộ tranh tứ bình thời Bắc Tống ở Việt Nam như thế nào nhé.
Phân tích các bức tranh tứ bình trong thơ Việt Nam (Dàn ý – 10 bài văn mẫu)
Bài văn phân tích về hình ảnh tứ trong thơ Việt Nam gồm dàn ý phân tích chi tiết, sơ đồ tư duy và 5 bài văn mẫu phân tích hay nhất, ngắn gọn nhất, được tổng hợp và chọn lọc từ những bài văn hay nhất lớp 12 đạt điểm cao. Mong rằng với 5 bài văn mẫu phân tích hình ảnh thơ tứ tuyệt trong bài thơ việt bắc này các em sẽ cảm thấy thích thú và viết bài tốt hơn.
Đề bài: Phân tích hình tượng tứ trong bài thơ “Chiến tranh Việt Nam” của Du Hý.
Phân tích dàn ý các bức tranh tứ bình trong thơ ca Việt Nam
1. Giới thiệu:
Giới thiệu tác giả
Đoạn trích giới thiệu
2. Nội dung:
Hai câu đầu: Tổng kết nỗi nhớ.
Hoa và người là những gì đẹp nhất của núi rừng Việt Bắc. “Hoa” là một cách nghệ thuật để thể hiện thiên nhiên, và nó cũng là một phần của thiên nhiên.
Trong nỗi nhớ của người trở về, hoa và người là hai hình ảnh đồng hiện, phản chiếu lẫn nhau. Hoa là hình ảnh đẹp nhất của thiên nhiên, con người là sản phẩm tuyệt vời của tạo hóa. Vì vậy, lỡ người thì hoa nở, lỡ hoa thì bóng người hiện ra, bao hàm vẻ đẹp của người ở lại.
Tám câu sau: Bức tranh thiên nhiên Việt Nam phong phú, lộng lẫy, tươi mát, tiêu biểu cho vẻ đẹp bốn mùa:
Đầu tiên, hình ảnh mùa đông của “Rừng xanh với hoa chuối đỏ tươi”:
Mùa đông xuất hiện trong những gam màu dịu mát – khung cảnh xanh tươi thanh bình của một khu rừng cổ thụ gợi lên một vùng quê xa vắng, thanh bình … Trên khung cảnh dịu mát đó, một gam màu ấm áp hơn nổi lên. “Hoa chuối đỏ tươi” (liên quan ở đây: màu đỏ của hoa chuối tượng trưng cho màu đỏ tượng trưng cho một cuộc cách mạng mới, như xua tan cái lạnh thiên niên kỷ nơi núi rừng mùa đông.
Tiếp theo, bức tranh về mùa xuân với “hoa mơ trắng trong rừng” – mùa xuân đầy hoa mơ nở trắng xóa, gợi lên sự dịu dàng, trong sáng, thuần khiết và ước mơ của tạo hóa. Hai chữ “rừng trắng” như làm cho cả núi rừng bừng sáng, hình ảnh vừa chân thực nhưng lại phảng phất chút biểu tượng: như gợi lên vẻ đẹp thuần khiết trong tâm hồn người dân Bắc Bộ. màu hoa mai Có thể nói là màu đặc trưng của núi rừng Việt Nam.
Những bức tranh mùa hè hiện lên trong nỗi nhớ của người lữ khách, không chỉ có màu sắc, đường nét, ánh sáng mà còn có cả tiếng ve ngân vang gọi hè: “Tiếng ve hót trong rừng…”. Ve sầu hót vào mùa hè, khi mùa hè đến rừng hổ phách đổi màu. Sống ở Việt Nam, người ta thường sầu muộn trước cảnh tượng kỳ dị của rừng hổ phách: vào những ngày cuối xuân, những nụ hoa còn ẩn hiện giữa kẽ lá. Khi tiếng ve hót, hoa vàng nở rộ. Cách dùng từ “mùa thu” khá tinh tế, nhấn mạnh sự chuyển mình đột ngột và nhanh chóng của lá, thể hiện sức gió thổi mưa hoa vàng, tiếng ve gọi hè.
Chùm tranh Bốn mùa kết thúc bằng bức tranh mùa thu: vào một đêm mùa thu, ánh trăng rọi qua tán lá tạo nên một khung cảnh huyền ảo. Cảnh này thích hợp để bộc lộ những cảm xúc thầm kín khi kết thúc một bản tình ca. Bài thơ gợi không khí thanh bình, yên ả, báo trước sự khởi đầu của cuộc sống thanh bình. Bài thơ còn gợi lên sự giao hòa giữa thiên nhiên (rừng thu) và vũ trụ (trăng), trong sự hòa hợp thiêng liêng nhân hậu giữa người đi và kẻ ở, để sống một cuộc sống bình yên, hạnh phúc.
Ảnh về tiếng Việt:
Ngoài nỗi nhớ thiên nhiên còn có nỗi nhớ con người Việt Nam. Con người là hình tượng mãi mãi hòa quyện, hòa quyện, hòa hợp với thiên nhiên. Sau mỗi câu thơ về hoa là câu ca dao nói về con người. Con người gắn bó mật thiết với thiên nhiên, làm cho thiên nhiên bớt hoang sơ và tình cảm hơn. Trong bản chất gợi cảm, con người thật bình dị và đáng yêu, luôn yêu lao động:
Hình ảnh con người trong mùa đông hiện lên như một “vết dao trên thắt lưng” với tư thế kiêu hãnh và tư thế lao động, mùa xuân gắn liền với đôi bàn tay dịu dàng, cần cù của người con gái “chăm lo từng ngày”. Sa Giang ”(Hình ảnh như một thước phim quay chậm, cho người đọc không chỉ thấy được đường nét, hình dáng, động tác của người thợ mà còn thấy được sự chu đáo, cẩn thận, tỉ mỉ trong từng công việc.)
Hình ảnh “Cô gái hái tre một mình” vào mùa hè gợi lên hình ảnh của sự cần cù, chịu khó, nhẫn nại mà cả không gian bao la của núi rừng Việt Nam.
Thương nhớ người Việt Bắc ai về cũng nhớ “câu hát ân tình thủy chung”. Đó là tâm hồn, là tình cảm của một con người lao động miệt mài, trước đất trời, trước cuộc đời, âm thầm mang theo rung động, xúc cảm của riêng mình.
3. Kết luận:
Tổng quát hóa vấn đề.
Phân tích thơ tứ tuyệt Việt Nam
Văn Văn Phân tích cảnh thơ tứ tuyệt trong thơ ca Việt Nam
Mời các bạn tham khảo bài viết mẫu dưới đây.
Phân tích sơ đồ tứ tuyệt trong bài thơ trắng Việt Nam – Ví dụ 1
Bài thơ “Việt Nam” ra đời vào tháng 10 năm 1954, dựa trên tập thơ “Việt Nam” của Du Hu. Sau hơn 3.000 ngày khói lửa, Hồ Chí Minh và đoàn quân chiến thắng tiến về thủ đô. trong bối cảnh của lịch sử huy hoàng đó. Tác giả đã viết bài thơ này. Đây là bài thơ tiêu biểu nhất trong tác phẩm “Việt Nam” nêu lên vẻ đẹp về giá trị tư tưởng và nghệ thuật của bài thơ Du Hũ.
Bao trùm toàn bộ bài thơ là nỗi nhớ da diết của người cán bộ kháng chiến đối với cảnh và người miền Bắc Việt Nam. Nỗi nhớ chân thành giữa “ta” và “ta”, giữa kẻ ở với người trở về, giữa người cán bộ kháng chiến với nhân dân Việt Nam, thể hiện lòng trung thành, nghĩa tình sâu nặng:
“Anh về rồi, em có còn nhớ về anh không, nhớ về hoa bên em, người đan nón chuốt từng sợi, nhớ người em gái hái măng một mình, nhớ lòng trung thành của ai. “
Từ “nhớ” như một luyến láy trong khúc tình ca khiến cho bài thơ lục bát trở nên sâu lắng, ngọt ngào.
Trong số 5 câu thơ trong đoạn trích, câu 2 mang ý nghĩa khái quát: “Anh về em nhớ anh – Anh về em nhớ hoa anh”. Câu nào cũng có hình ảnh thiên nhiên Việt Nam, câu nào cũng có hình ảnh của tiếng Việt.
Hình ảnh thiên nhiên trong bài thơ của nhà thơ thật đẹp, trong sáng, thơ mộng và tràn đầy sức sống. Nhà phê bình văn học Hoài Thanh nhận xét “những bài thơ viết về thiên nhiên của Việt Nam có thể so sánh với những bài thơ miêu tả thiên nhiên trong văn học cổ điển”. Thiên nhiên trong thơ có một sự đa dạng độc đáo. Bốn câu thơ đều miêu tả bốn mùa trong năm, mỗi mùa lại mang những sắc thái khác nhau. Qua thiên tài của nhà thơ Ruan Dou, bài thơ này gợi cho chúng ta liên tưởng đến bức tranh tứ bình trong “Hoa kiều”:
“Hoa cúc lá sen lại nở, ngày dài tháng ngắn, đông chuyển sang xuân.”
Với yếu tố này, cảnh rừng Việt Nam khi đông về là một màu xanh ngút ngàn, được tô điểm và chiếu sáng bởi “những bông hoa chuối đỏ tươi”. Những bài thơ, bức tranh thể hiện vẻ đẹp hoang sơ, hùng vĩ của rừng Việt Nam. Khi mùa xuân đến, “Giấc mơ Bãi Lin”, một vẻ đẹp trong sáng, thuần khiết và giản dị, gợi bao cảm xúc nên thơ và u uất – một sức sống đánh thức “Bãi Lin” và làm thay đổi cảnh sắc thiên nhiên chiến khu. Và vào mùa hè, “ve sầu gọi Lin Daojin”. Chỉ có miền Bắc Việt Nam là có rừng hổ phách vàng vào mùa hè. Sự thay đổi của thời gian, nhịp điệu của mùa xuân và mùa hạ được thể hiện bằng tiếng ve, và được diễn tả bằng từ “hạ”. Thơ hay, vì thời gian cũng có màu. Trước mặt cán bộ kháng chiến là khu rừng hổ phách dần ngả màu vàng vào mùa hè với tiếng ve kêu râm ran cả ngày lẫn đêm. Chữ “đổ” là nhãn gợi ta nhớ đến câu thơ của Xuân Chết trong “Bài thơ tuyệt mệnh”: “Đổ lá xanh trời xanh Thu về nơi âm u huyền bí”. Mùa thu, chiến khu làm sao quên được “hòa trong rừng thu”. Rừng, Núi đá, suối, “Làng sương khói” càng đáng yêu hơn dưới ánh trăng xanh êm đềm và mát mẻ. Làm tôi nhớ đến bài thơ của Trăng trong những ngày đầu chống Nhật: “Trăng cổ, bóng hoa lồng” (Cảnh khuya).
Hình ảnh thiên nhiên trong bài thơ trong sáng, gợi cảm, thơ mộng và đầy tính thẩm mĩ. Mỗi bài thơ là một khung cảnh, những mảng màu và nét vẽ thiên tài. Màu xanh của rừng cổ thụ, màu đỏ tươi của hoa chuối, màu trắng của hoa mơ vào mùa xuân, màu vàng tươi của hổ phách vào mùa hè và màu xanh dịu mát của trăng thu. Nghệ thuật phối màu tài tình của các yếu tố trong miêu tả đã phác họa nên một bức tranh thiên nhiên tươi đẹp và sống động, đúng như lời Bác Hồ đã nói:
“Cảnh rừng Việt Bắc đẹp quá” …
(Cảnh rừng miền Bắc Việt Nam)
Vẻ đẹp tự nhiên của viet bac vẫn hòa hợp với những con người sống năng động. Vì vậy, thiên nhiên Việt Bắc không hoang vắng, buồn tẻ mà ngược lại, tràn đầy sức sống – sức sống mãnh liệt của một vùng quê kháng chiến. Những người được nhắc đến trong bài thơ này rất xinh đẹp và duyên dáng. Đầu tiên, con người xuất hiện trong môi trường làm việc và sống hòa hợp với thiên nhiên.
“Cao thụ ở Dương Trung, giang hồ đeo thắt lưng” – là một trong những dòng đặc sắc của bài thơ này. Bài thơ được coi là một phát hiện độc đáo về cách luyến láy, với cách đảo âm “rất Việt Nam”, như lời Xuân Diệu đã nói. Người Việt Nam ở miền Bắc mang dao trên thắt lưng khi họ đi thăm và làm rẫy trong rừng. Ở điểm cao nhất của lối đi, ánh nắng chiếu vào những con dao này tạo nên sự phản chiếu lấp lánh, rực rỡ. Chỉ với một bài thơ, người đọc có thể cảm nhận được hình ảnh anh hùng mạnh mẽ của con người Việt Nam trong tư thế hiên ngang, làm chủ thiên nhiên, dũng cảm. Viết được những dòng chữ đẹp như vậy đòi hỏi chất thơ tinh tế và óc quan sát nhạy bén. Những người chống Nhật với địa vị thời đại, dù là nhà sản xuất hay quân nhân đều mang trong mình một phong thái anh hùng:
“Núi không thể nhấc vai che cho lá khỏi gió thổi”.
(về phía tây bắc)
Nhớ lại “giấc mơ rừng nở trắng” vào mùa xuân cũng là hồi tưởng “nhớ người đan nón đánh bóng từng sợi”. Tác giả miêu tả người Việt Nam trong một môi trường cụ thể và một công việc cụ thể. Từ “trang trí” trong thánh thư là để trau chuốt, đánh bóng và làm đẹp. Từ “từng sợi” diễn tả đức tính cần cù, tỉ mỉ, nỗ lực. Sử dụng một kỹ thuật mới để “cho từng sợi” mỏng và bóng, nó được đan thành những chiếc mũ xinh xắn, một trong những nghề thủ công đặc trưng của Việt Nam. Con người cần cù, tài hoa ấy đáng được “ghi nhớ”, bởi như cụ Nguyễn Đình từng ca ngợi: “Bàn tay con người như có phép thuật, trên lá tre đan lên ngàn vần thơ”. Như vậy với bài thơ chiếc nón Huế được nhắc đến trong ca dao, chúng ta đã biết thêm về chiếc nón làm bằng sợi Việt Nam qua đầu bài thơ.
“Cô Chị Bắn Tre” là một bài thơ có vần đẹp. Ghép vần: Việc sử dụng liên tiếp “cô-cô” (vần lưng) và phụ âm “m” của từ “mang-một-tôi” tạo nên một câu thơ đa âm, hấp dẫn về mặt âm nhạc. Một cô gái Việt Nam trẻ trung, xinh đẹp, lạc quan, đi giữa rừng hái măng một mình trong tiếng nhạc rừng, dù có “lẻ loi” cũng không thấy cô đơn. Con người đó đang làm chủ thiên nhiên, làm chủ cuộc sống. Trong không gian nghệ thuật đầy màu sắc và tiếng suối rừng, các cô gái Việt Nam trông thật hồn nhiên và dễ thương! Dòng cuối của bài thơ này: “Nhớ ai câu hát chung tình”, nói lên vẻ đẹp tâm hồn của người Việt Bắc. “ai” là một đại từ phù phiếm chỉ gợi lên lòng trung thành nỗi nhớ nhung. Bài ca về tình yêu thủy chung giữa “ta” và “ai” đã chịu bao thử thách thăng trầm, máu lửa “15 năm trời mặn nồng”, suốt đời sẽ không thể nào quên.
“To the Tiger” là một bài thơ miêu tả thiên nhiên và con người Việt Bắc, là một bài thơ đầy hoài niệm và tình cảm, rất “tự hào” về “quê hương cách mạng thành lập nước cộng hòa” của Bắc Việt và một chiến khu bất khuất Có thể nói, Từ Hũ không chỉ ca ngợi đất nước Việt Nam, mà còn viết những bài thơ hay nhất, ca ngợi đất nước và con người Việt Nam.
Bài thơ này chứa chan tình người. Nỗi nhớ đã thấm vào cảnh vật và vào lòng người – người về quê. Bài thơ lục bát có âm điệu ngọt ngào, da diết, hệt như bản tình ca “me-ta” ngày xưa. Từ “nhớ” được lặp lại nhiều lần, thể hiện đầy yêu thương và nhớ nhung …
“Việt Nam” là một trong những bài thơ lục bát hay nhất của ông. Đoạn thơ trên tiêu biểu cho cái hay, cái đẹp của “Việt Nam”. Những ngòi bút nghệ thuật với những di sản và sự sáng tạo độc đáo, từ những làn điệu trữ tình của ca dao đến những bài tả cảnh ngụ tình độc đáo. Cảnh vật và con người thật đẹp và dễ mến, tràn đầy năng lượng và không khí tuổi mới. Kết cấu của bài thơ này đẹp theo kiểu cổ điển, cô đọng, cân đối, hài hòa, gây nhiều ấn tượng và thẩm mỹ. Thơ là tiếng lòng, là tiếng nói của trái tim. Những vần thơ trên là tâm tư, nguyện vọng của người cán bộ khởi nghĩa hướng về “thủ đô gió ngàn” ở miền Bắc Việt Nam.
Phân tích hình ảnh tứ tuyệt trong bài thơ Màu trắng của Việt Nam – Văn mẫu 2
Nhân từ và trung thành – một trong nhiều đức tính của một nhà cách mạng. Vẻ đẹp này đã được thể hiện trong nhiều tác phẩm văn học thời chống Pháp và chống Mỹ. Chúng tôi cũng đã thấy quang cảnh này từ phía Bắc Việt Nam của đến huu. Điểm đặc biệt là trong bài thơ này:
“Liệu khi trở lại chính mình có nhớ tôi không … Bản tình ca chung thủy sẽ nhớ ai”
Mười khổ thơ trên là khổ thơ thứ năm của nền thơ ca miền Bắc Việt Nam. Đây là bức tranh toàn cảnh và tiêu biểu về bốn mùa ở Việt Nam. Bức tranh ấy rực rỡ, tươi tắn nhưng cũng đượm buồn, thao thức như được lọc bởi nỗi nhớ của người đến rồi đi. Khi nói lời chia tay, anh bày tỏ nỗi nhớ:
“Khi tôi trở lại với chính mình, tôi nghĩ đến tôi, tôi nhớ những bông hoa với bạn.”
“Tôi đã trở lại” được lặp lại hai lần ở đầu câu – đồng thời là lời chia tay, nhưng câu đầu tiên là để hỏi ai đó và câu thứ hai là để bày tỏ lòng mình. Giọng thơ của nhà thơ ở đây thật ngọt ngào, dễ mến. Sự chia cắt giữa người kháng chiến và người Việt Nam, giữa miền xuôi và miền đối địch đã trở thành cuộc chia tay của đôi trai gái (ta-me). Những tháng ngày gian khó gắn với cảnh và nỗi nhớ quê người Việt Bắc dần hiện lên trong tâm trí lữ khách. Cảnh vật, con người Việt Nam, mọi thứ đều đáng yêu khó quên. Điều đầu tiên cần nhớ là những bông hoa của cùng một người. Hoa và người hòa quyện trong nỗi nhớ. Hoa hậu là nhớ cảnh đẹp thiên nhiên Việt Bắc, nhưng vẻ đẹp Việt Bắc không thể tách rời vẻ đẹp được dân tộc Việt Nam nâng niu, gắn bó với vẻ đẹp của con người, cách mạng và đất nước. Bức tranh Bắc Bộ Việt Nam, trước hết là vẻ đẹp của sự gắn bó giữa thiên nhiên và con người.
Bức tranh được miêu tả bằng câu thơ êm đềm, nhẹ nhàng. Nó có màu sắc tươi sáng và rực rỡ, ánh sáng lung linh và âm thanh ấm áp, dễ chịu. Cảnh và người hòa quyện vào nhau: Bốn cặp lục bát đều tả cảnh bốn mùa. Mỗi cảnh, mỗi người được nhắc đến đều có một điều gì đó để nhớ. Tất cả được hiện ra trước mắt chúng ta qua nét vẽ tài tình của tác giả, một bức tranh Việt Nam thơ mộng và tuyệt vời.
Mỗi mùa đều được nhà thơ nhớ đến với những nét tiêu biểu nhất, với cách diễn đạt tinh tế và gợi cảm, nhớ mùa đông ở Việt Nam là nhớ “rừng xanh, hoa chuối đỏ tươi”. Trong mênh mông xanh ngắt với những gam màu ấm (đỏ và sáng), bức tranh mùa đông Việt Bắc không còn lạnh lẽo, hoang vu. Mùa xuân lại đổi màu, tràn ngập một màu trắng tinh khôi, thơ mộng: “Mùa xuân mở ra, nở trắng rừng”. Cảnh này hơi giống cảnh khi bạn trở về nhà:
“Ôi, sáng nay mùa xuân 41, rừng biên giới trắng nở hoa mơ về … lặng. Chim hót bên bờ sậy vui mừng khôn xiết …” (theo chú, sang huỵch)
Bốn cặp hình lục giác được sử dụng dưới đây để mô tả sự xuất hiện của mùa hè và mùa thu. Nếu màu chủ đạo của cảnh chuyển động là màu xanh lam, lối vào là hoa đỏ tươi, cảnh mùa xuân là hoa mai trắng, thì cảnh mùa hạ là màu vàng tuyệt đẹp của rừng hổ phách: ve sầu được gọi là hổ phách rừng. Đây là đoạn thơ hay nhất trong thơ Việt Nam. Câu thơ sáu kí tự thể hiện những thay đổi của cảnh vật thiên nhiên. Bài thơ nằm trong khu rừng hổ phách trong nắng hè, với tiếng ve kêu râm ran không ngớt. Cuối cùng, mùa thu đến trong sắc màu dịu nhẹ của ánh trăng, màu của ước mơ về cuộc sống bình yên giữa những khó khăn gian khổ. Cảnh nào cũng đẹp, mùa nào cũng đáng yêu, và mùa nào cũng là một bức tranh ngộ nghĩnh nên thơ.
Hình ảnh bốn giờ cũng phản ánh vẻ đẹp của con người Việt Bắc. Cảnh là nền của các nhân vật, và các nhân vật được gắn với cảnh, hợp nhất với nhau, và tô điểm cho nhau. Dường như những khung cảnh ấy phải có những con người này, nhà thơ đã đưa vào bức tranh những con người Việt Nam bình dị và đáng yêu: hình ảnh người đi lên núi lấp ló trong nắng, bàn tay “chạm khắc từng thớ thịt trong tiếng nhạc du dương và rừng “Giữa sắc vàng, tiếng hát của người thợ nón” Giang “và” chị đi hái măng một mình “. Cả bản tình ca làm dịu rừng thu, ánh trăng thanh bình tỏa sáng.
Nếu bạn không biết nhiều về Việt Bắc, không yêu Việt Bắc sâu sắc, không nhớ Việt Bắc sâu sắc, bạn không thể miêu tả một quê hương cách mạng đẹp đẽ và ấm áp như vậy. Nhưng có một bức tranh như vậy, cũng như góc nhìn đúng đắn và tiến bộ của nhà thơ cách mạng. Khác với những hiểu lầm trước đây của người dân miền núi, cho rằng người dân miền núi là nơi “nước độc”, tàn ác, thiếu văn minh…, Bác hết lòng thương yêu, ủng hộ quê hương cách mạng. Bức tranh thơ này xuất phát từ sự gắn bó thủy chung, từ nỗi nhớ da diết của nhà thơ đối với cảnh vật và con người Việt Bắc.
Cảm xúc nhớ nhung da diết là tiếng nói xuyên suốt cả bài thơ Nhịp điệu trầm bổng nhẹ nhàng của sáu mươi tám khổ thơ khiến giọng thơ u sầu, tha thiết. Cấu trúc của Thơ Việt Bắc là một cấu trúc tương đương, có anh có em, có người để ở, nhưng thực chất đó chỉ là sự phân thân của chủ thể trữ tình.
Bài thơ kết thúc bằng bài ca về tình yêu và lòng trung thành của những người lính Cách mạng Miền xuôi, của nhân dân Việt Bắc. Bài hát ấy vang lên trong lòng người đi, luôn nhắc nhở chúng ta về những ngày còn ương ngạnh. Bài hát ấy là cầu nối giữa trái tim và trái tim, quá khứ, hiện tại và tương lai.
Phân tích hình ảnh tứ tuyệt trong bài thơ Màu trắng của Việt Nam – Văn mẫu 3
“Ôi! Nỗi nhớ, mãi mãi!”. Nỗi nhớ xuyên không gian và thời gian. Nỗi nhớ da diết … và nỗi nhớ vẫn ám ảnh tâm hồn những người lính cách mạng ở miền xuôi, tận Việt Nam – nơi đã từng reo vui trong những năm tháng gian khổ của chiến tranh. ..
“Anh về rồi, em có nhớ khi về không, nhớ hoa và người trong rừng, hoa dã quỳ đỏ tươi, dao quanh eo cao trong nắng. Mộng xuân trắng xóa, Lin Kee người đan từng chiếc nón Đường nét, giọng hát như rừng đổ vàng nhớ chị em hái măng một mình Lìn khàng trăng soi bóng an nhớ nhớ ai – khúc ca thủy chung son sắt. ”
Trong cùng một bài thơ ngắn, nhưng từ “nhớ” được lặp lại năm lần. Từ câu đầu tiên đến câu cuối cùng, nỗi nhớ da diết. Hai dòng đầu là từ gợi hình “Qiao Reminder”: Em có nhớ anh không? Riêng tôi, tôi vẫn nhớ! Cách xưng hô gợi sự gần gũi, tình cảm bền chặt. Bạn và tôi không phải là một mà là hai.
Người chết nhớ gì? Bắc phải nhớ gì, phải yêu? Các câu thơ có được diễn đạt rõ ràng không?
“Anh về rồi, em nhớ hoa của anh”
Núi, rừng, phong cảnh Việt Nam được ví như “hoa”. Nó tươi mới, sôi động và “ngọt ngào”. Trong bức tranh thiên nhiên ấy, hình ảnh con người hiện lên giản dị, chân chất, giản dị mà cao đẹp vô cùng! Con người và thiên nhiên hòa quyện vào nhau tạo thành phong cách riêng của Việt Nam.
Đất nước bốn mùa qua những hình ảnh, chi tiết, nét đặc trưng trong những câu thơ ngắn. Mỗi mùa có một hương vị đặc trưng riêng.
Vào mùa đông, khu rừng xanh tươi với những bông hoa chuối “đỏ tươi” và ánh nắng vàng rực rỡ. Khi mùa xuân đến, sắc trắng của hoa mơ làm bừng sáng cả khu rừng. Vào mùa hè, có ve sầu và “rừng hổ phách vàng”. Khi trời thu về, thiên nhiên như được chiếu sáng bởi màu vàng dịu của ánh trăng. Bài thơ tràn ngập những gam màu chói lọi: xanh, đỏ, vàng, trắng … Những gam màu này chạm đến giác quan của người đọc. Khi chạm vào những đường nét của nhà thơ, ta có cảm giác như đang chiêm ngưỡng một bức tranh sống động. Trong đó, việc sử dụng màu sắc tự nhiên, hài hòa càng làm tăng thêm vẻ đẹp của núi rừng Việt Nam.
Thời gian trôi chảy trong câu thơ. Cần phải có những bước đi vững chắc và chắc chắn để mọi người không nhìn thấy sự thay đổi của các mùa trong năm. Các thuộc tính của viet bac cũng được mô tả theo chiều dọc của thời gian. Sáng sớm hoa nở “trắng rừng”, trưa nắng, đêm buông, ánh trăng bàng bạc… Núi rừng Việt Nam đang từng phút đổi đời. .
Cảnh vật tuyệt vời, đáng yêu trở nên hài hòa, ấm áp và sinh động hơn khi bóng dáng con người xuất hiện. Con người xây tổ trong tự nhiên, như một bông hoa đẹp nhất tỏa hương thơm ngát nhất. Mỗi câu thơ tả cảnh được ghép với những câu thơ tả người. Cảnh và nhân vật đan xen hài hòa. Những người này rất chăm chỉ, tận tâm và đam mê công việc. “Người mang dao”, “đan nón”, “chị hái măng một mình”, câu hát ân tình của ai đó vang lên giữa đêm núi ồn ào… Hình ảnh con người làm đẹp tự nhiên càng thêm lộng lẫy. Chúng gợi lên nỗi nhớ về những người đã khuất. Đọc bài thơ này ta cảm nhận được vẻ đẹp bình dị, trong sáng của tâm hồn người Việt Nam. Ở đó, họ đối xử với nhau bằng một tình cảm chân thành, ấm áp, lòng trung thành “nhất quán”. Họ đã huấn luyện binh lính, châm ngòi cho các cuộc cách mạng, châm ngòi cho các cuộc kháng chiến trên khắp đất nước … Con người Việt Nam giản dị và anh hùng.
Gợi lên những hình ảnh về thiên nhiên và con người nơi đây, người bạn này thể hiện tình cảm chân thành, tình cảm sâu nặng và nỗi nhớ da diết. Tôi và tôi, tôi và tôi có:
“Thương nhau, sẻ sắn, chung bát, chung chăn”
Chia sẻ những khó khăn vất vả ngọt ngào như thế này! Làm sao quên được nhau. Cảm giác này đã ăn sâu vào tâm hồn của những người ở và những người ra đi. Vì vậy, trước khi ra đi, nỗi nhớ là nỗi niềm khắc sâu trong tâm khảm, tình cảm của tác giả.
Giọng thơ nhẹ nhàng, sâu lắng. Cả bài thơ chứa đựng niềm lạc quan, vui vẻ và tin tưởng vào cuộc sống. Nó mang âm điệu trữ tình thể hiện tình yêu thiên nhiên, con người và lòng yêu nước nồng nàn của các phần tử. Cuối bài thơ có một câu hát ngọt ngào gợi nhiều kỉ niệm. Những kỉ niệm ấy theo bước chân người đi, quấn quít trong tim người ở lại …
So với toàn bài, các câu của bài thơ này có sức khái quát cao. Lời thơ mộc mạc, trong sáng thể hiện sự rung động thực sự trước vẻ đẹp của núi rừng và con người Việt Nam. Nỗi nhớ trong thơ của nhà thơ như một khúc dân ca ngọt ngào đã đi vào lòng người đọc và để lại trong lòng chúng ta những nỗi xót xa.
Phân tích sơ đồ tứ trong bài thơ Tiếng Việt – Ví dụ 4
Quăng Nồi (1920-2002) được coi là ngọn cờ đầu của nghệ thuật cách mạng Việt Nam. Ông đã để lại cho đời một sự nghiệp văn học phong phú, giá trị và một phong cách nghệ thuật độc đáo, mang màu sắc trữ tình sâu sắc, đậm đà tính dân tộc. Tiêu biểu cho sự sáng tạo, tìm tòi không ngừng của nhà thơ là thơ ca thời Bắc Tống ở Việt Nam. Có thể nói, cốt cách của tác phẩm này nằm ở mười câu thơ thể hiện nỗi nhớ nhung về cảnh sắc thiên nhiên và con người Việt Bắc:
“Nghĩ đến ta khi ta về, ta về, ta nhớ hoa và người trong rừng, hoa dã quỳ đỏ tươi, đèo cao nắng vàng, dao thắt lưng xuân, mộng hoa nở trong rừng ”Tiếng ve gọi Lin Daojin, em nhớ em gái hái măng một mình, trăng sáng rừng thu an yên, nhớ ai khúc thủy chung. “
Việt Cộng được thành lập vào tháng 10 năm 1954. Sau thắng lợi của Kháng chiến chống Pháp, các cơ quan trung ương của đảng và chính phủ từ tay Việt Cộng trở về Hà Nội. Dohu, cũng là một trong những cán bộ kháng chiến đã sống với Việt Cộng nhiều năm, nay đã rời chiến khu trở về đồng bằng. Bài thơ dường như được viết trong cuộc chia tay đầy luyến tiếc ấy.
Môi trường sáng tác tạo nên một tâm trạng đặc biệt, đầy cảm xúc u uất. sử dụng thành công thể thơ lục bát truyền thống, sử dụng sáng tạo đại từ nhân xưng, âm vang ca dao quen thuộc, lời thơ ngọt ngào, tình cảm, lời thơ đậm đà chất dân gian. Kỉ niệm về một thời kháng chiến gian khổ và anh dũng. Lòng trung thành gắn bó của các chiến sĩ chống Nhật đối với nhân dân, miền Bắc Việt Nam và đất nước được thể hiện một cách sâu sắc, chân thành và cảm động.
Nửa đầu bài thơ với hình thức đối thoại giữa anh và em, tập trung miêu tả cảnh chia tay đầy nhớ nhung, lo lắng, khắc khoải và nhớ nhung người đã khuất. Cả khung cảnh và con người Việt Nam đều được thể hiện đẹp mắt qua phản ứng tử tế.
Có lẽ nỗi nhớ đẹp nhất về Việt Nam là ấn tượng khó phai mờ về con người hòa làm một với thiên nhiên, núi rừng tươi đẹp:
“Anh về em, nhớ anh, nhớ hoa”
Đoạn thơ bắt đầu bằng một câu hỏi tu từ, nhưng câu hỏi chỉ là cái cớ để bộc lộ chiều sâu của cảm xúc. Các từ “ta” và “nhớ” mang tính chất khẳng định, nhấn mạnh sự khao khát của người dân đối với thủ đô. Phép liệt kê “hoa cùng người” chỉ đối tượng của nỗi nhớ. Đó là phần hay nhất của The War Zone. Hoa là sự kết tinh giữa hơi thở của thiên nhiên và vẻ đẹp của đời sống xã hội. Suy cho cùng, con người cũng là hoa của đất. Hoa và người xếp liền nhau, bổ sung cho nhau, làm bừng sáng cả không gian rừng Việt Nam.
Những câu thơ sau tập trung tái hiện vẻ đẹp của bốn mùa một cách chân thực và cụ thể. Cảnh và người hòa quyện, hòa quyện vào nhau, câu nào tả cảnh thì mỗi câu tả người. Mỗi mùa có một vẻ đẹp riêng, tạo thành một bộ tứ của ánh sáng, màu sắc, đường nét, niềm vui và âm thanh ấm áp.
Bức ảnh bắt đầu bằng cảnh mùa đông:
“Rừng xanh, hoa chuối đỏ tươi” Đưa ánh nắng qua đèo cao “
Nhớ mùa đông ở Việt Nam, nhà thơ không nhớ cái lạnh, mà là cái nắng chói chang. Với chiến lược “rừng xanh” “hoa chuối đỏ tươi” tái hiện không gian núi rừng bao la, cỏ cây hoa lá ẩn hiện trong màu xanh tươi của chuối rừng, đỏ rực như ngọn đuốc. Sự kết hợp giữa hai gam màu nóng tạo cảm giác sảng khoái, sưởi ấm toàn bộ không gian và tạo nên sự ám ảnh trong tâm trí con người. Nơi núi rừng ấy không chỉ có chuối ngự đỏ tươi mà còn có những con người vượt thời gian và không gian, xuất hiện trên đỉnh Gaoyakou với tư thế kiêu hãnh, con dao rừng xuất hiện dưới ánh nắng chói chang phản chiếu trên xe hơi. bị trói vào lưng. Những hình vẽ trong không gian, giữa núi và mặt trời, giữa trời và rừng xanh, là kết tinh của vẻ đẹp của núi, là điểm nhấn của núi.
Hai dòng tiếp theo mô tả thời thanh xuân:
“Mùa xuân rừng nở hoa trắng, nhớ người đan nón, mài sợi”
Hai động từ “hoa ban trắng” đặt cạnh nhau vừa thể hiện bước chân của mùa xuân vừa nhấn mạnh sắc màu của ngày xuân Việt Nam. Mùa xuân đến mang theo sức sống mới, khiến từng ngọn cây, từng cành mai nở trắng, để rồi dần dần cả núi rừng bừng lên sắc trắng tinh khôi, dịu dàng và thơ mộng. Màu trắng của hoa mai lấn át các màu khác, làm bừng sáng cả khu rừng, khiến lòng người xúc động, sầu muộn và khao khát. Nhà thơ nghĩ đến những người đan nón. Công việc trau chuốt từng sợi chỉ là hiện thân của sự chăm chỉ, khéo léo và tài hoa trong tâm hồn và tính cách của người Việt Nam. Họ kiên nhẫn, tỉ mỉ trong từng cử chỉ, tạo ra những sản phẩm đẹp đẽ để đời. Đoạn thơ chứa đựng một thái độ yêu thương, quý mến và trân trọng đối với người lao động của nhà thơ.
Tiếp theo, Summer Warzone mang đến những âm thanh và màu sắc khó quên:
“Con ve sầu tên Lin Daojin, tôi nhớ chị tôi hái măng một mình”
Qua miêu tả của nhà thơ, tiếng ve kêu như tiếng nhạc rộn ràng không chỉ làm vang động núi rừng, mà còn làm thay đổi màu sắc của cây lá. Động từ “đổ vàng” diễn tả gọn gàng sự thay đổi màu sắc đột ngột của khu rừng hổ phách. Khi tiếng ve kêu râm ran báo hiệu mùa hè đến, cả khu rừng hổ phách xanh tươi như bừng lên hàng nghìn cánh hoa vàng, như hòa quyện với mật và nắng rừng ngọt ngào. Trong dàn nhạc và giàn hoa ấy, nhà thơ nhớ đến một người chị. Người sơn nữ lẻ loi giữa núi rừng không gây ấn tượng buồn mà mang vẻ đẹp khỏe khoắn, bởi chị hiện lên trong một thái độ lao động kiên quyết, giản dị nhưng rất thơ và vui vẻ.
Nhớ về mùa thu, nhà thơ không thể nào quên được ánh trăng:
“Rừng thu, trăng soi bóng bình yên, nhớ tiếng ân tình thủy chung”
Đoạn thơ mở ra một không gian tràn ngập ánh trăng thanh bình, soi sáng núi rừng chiến khu. Ánh trăng ấy không chỉ mang vẻ đẹp của thiên nhiên mà còn gắn kết bao cảm xúc của những con người đã trải qua những năm tháng chiến tranh gian khổ. Trong rừng vàng ấy, một bản tình ca bất chợt ngân nga khiến lòng người xúc động. Tiếng hát bộc lộ lòng người, tâm hồn bất khuất, lòng biết ơn của người Việt Nam cũng chính là tấm lòng của con người. Trở lại chiến trường Vậy dường như ánh trăng càng sáng, tiếng hát càng xa.
Vì vậy, nỗi nhớ của người cán bộ xuôi đã khắc họa sâu sắc khung cảnh thiên nhiên núi rừng Việt Nam vừa hiện thực, vừa thơ mộng, vừa riêng biệt, vừa độc đáo, khác hẳn với những bản làng trong tổ chức. .Gia cảnh là những người lao động bình thường nhưng chính họ đã góp phần to lớn vào chiến thắng vĩ đại của dân tộc. Chỉ những ai có cảm tình với Việt Nam và thấy miền Bắc Việt Nam gần như trong tầm tay mới có cảm xúc, ấn tượng và hoài niệm như vậy.
Tác giả còn đào sâu và mở rộng nỗi nhớ Việt Nam trong những câu thơ sau. Với nỗi nhớ chiến tranh Việt Nam vừa gian khổ, vừa anh dũng trong Kháng chiến chống Nhật, niềm tin vào đảng, niềm tin vào Bác Hồ vĩ đại, ca ngợi Tổ quốc sâu sắc.
10 dòng thơ ngắn trên đây, với âm điệu ngọt ngào, ngôn từ giản dị, xúc động, phong cách thơ hào hùng, bộc lộ nỗi nhớ quê hương da diết của nhà thơ đối với đất nước Việt Nam. Qua nỗi nhớ và lòng thành kính chân thành của nhà thơ, cảnh vật hiện lên gần gũi, chân thực, nên thơ và trữ tình đối với con người Việt Nam. Toàn đã dùng chính tình cảm của mình để nói lên tình cảm của cả một thế hệ đối với đất mẹ, ca ngợi lòng trung thành, nghĩa tình của nhân dân ta.
Phân tích sơ đồ tứ tuyệt trong bài thơ Tiếng Việt – Ví dụ 5
Nói đến những thành tựu nổi bật của văn học Việt Nam trong Kháng chiến chống Pháp, có lẽ chúng ta không thể không nhắc đến Việt Bắc Touhu. Đây là bài thơ đậm màu sắc dân tộc, phong cách thơ tiêu biểu. Thông qua đó thể hiện nỗi nhớ da diết, son sắt và tình yêu thương của nhân dân Việt Nam đối với cách mạng, với Đảng, với Bác Hồ, đồng thời thể hiện tình cảm của những cán bộ khởi nghĩa đối với thiên nhiên, núi rừng và con người Bắc Bộ. Việt Nam. Bài thơ gồm năm câu lục bát gợi bao nỗi nhớ da diết đối với người cán bộ cách mạng miền xuôi, và đây là những cảnh đẹp thân thương nhất của chính cánh nhà thơ và nhân dân Việt Bắc.
“Chúng tôi trở lại, bạn nhớ bài hát tình yêu mà chúng tôi nhớ”
Hai dòng đầu của bài thơ gợi cho cả đoạn văn một cảm nhận chung. “Tôi” là người ra đi, và là chính tác giả. Ở đây, bài thơ được xây dựng từ những câu đối đáp thường thấy trong ca dao cổ truyền. Vì vậy, đó là lời nói ngọt ngào của việc để lại cho những người ở lại, liên kết điều này với người phụ nữ trẻ địa phương. Và câu hỏi tu từ này là cái cớ để thể hiện tình yêu mà chàng trai miền xuôi dành cho cô gái Tây Nguyên.
“Khi tôi trở lại với chính mình, tôi nghĩ đến tôi, tôi nhớ những bông hoa với bạn.”
“Hoa và Người” thực sự là nỗi nhớ về thiên nhiên và con người Việt Nam. Ở đây, thiên nhiên và con người chung sống hòa hợp, giữa con người ngoài mối quan hệ tương sinh còn có mối quan hệ tương hỗ. Bắc Việt sinh thành người, ấm áo ấm Bắc Việt.
Tiếp theo, tám dòng còn lại của sáu câu lục bát giống như một bức tranh cuộn về thiên nhiên và con người. Nhà thơ đã dùng bốn câu lục bát để miêu tả cảnh núi non bốn mùa, mỗi mùa là một bức tranh thiên nhiên, mỗi nét đẹp riêng. Có thể thấy, bản thân bài thơ đã mang đậm màu sắc dân gian.
Đầu tiên là bức tranh tả cảnh gợi lên trong chúng ta tình yêu mùa đông Việt Bắc. Tại sao lại là mùa đông? Vì đây là kỉ niệm của tác giả lúc chia tay. Chúng ta còn nhớ vào một đêm mùa đông năm 1946, Hồ Chí Minh ra lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến. Đặc biệt ở Hà Nội, những cảm tử quân từng giam cầm địch hai tháng trong thành phố đã bí mật vượt sông Hồng về căn cứ địa cách mạng Việt Nam. Sự kiện này vẫn còn sống động đến ngày nay bằng một bài hát quen thuộc:
“Đêm lạnh dưới chân, hẹn ngày mai sông về, sông đỏ đôi bờ mãi hát niềm tin khúc ca khải hoàn.”
Giảm cân trong mùa đông đã viết:
“Đôi mắt anh buồn quá, nhìn em không nói nên lời. Tình yêu của chúng ta đẹp quá, dù có nói đi chăng nữa cũng chẳng qua một mùa đông …”
Tuy nhiên, tại khu rừng đẹp mê hồn này, màu đỏ tươi của hoa chuối rừng bỗng nhiên tỏa sáng như một ngọn đuốc. Vẻ đẹp thơ mộng, lộng lẫy của mùa đông Việt Nam gợi bao niềm rung động sâu xa. Qua bức tranh ta thấy dù mùa đông rất lạnh nhưng cuộc sống của núi rừng dường như vẫn tuôn chảy, tình cảm ấm áp ấy đã trở lại trong lòng người.
Thiên nhiên thật đáng yêu, còn con người thì sao? Hãy xem xét bài hát này:
“Qualcomm với con dao dưới ánh nắng mặt trời”
Thời gian được xác định bởi phần tử “ngày mùa xuân”. Chính ấn tượng về thời gian này đã tạo ra sự chuyển động và lan tỏa. Không gian nơi đây như một câu chuyện cổ tích. Ban nãy hoa chuối đỏ còn xanh, nay nở đầy rừng mai trắng thơm. Màu trắng tinh khôi ấy bao trùm cả khu rừng gợi lên trong lòng ta một cảm giác thơ mộng. Ngoài ra, màu trắng của hoa mai gợi lên sự tĩnh lặng và làm cho con người cảm thấy sảng khoái. Bài thơ này làm cho chúng ta cảm thấy rằng màu xanh đã bị lấn át. Mùa xuân ở đây không tưng bừng như mùa xuân diệu kỳ mà đến một cách lặng lẽ, âm thầm nhưng không mất đi niềm vui.
“Hãy nhớ ai đan mũ và đánh cát.”
Mùa xuân được miêu tả trong bài thơ rất tiêu biểu cho mùa xuân ở Việt Nam. sợi giang là sản phẩm của việt bắc. Vì vậy, người công nhân đó là người Bắc Việt, không phải người miền xuôi. Mọi thớ thịt đều có thể được nhìn thấy, tức là mọi người có thể được nhìn thấy ở gần.
Rồi thời thanh xuân trôi qua nhanh chóng, con người ta cứ thế trôi theo dòng đời.
<3
Hình ảnh thu hút sự chú ý của người đọc một cách trực quan và rõ ràng. Trước hết, điều độc đáo ở đây là âm thanh, âm thanh của mùa hè, âm thanh của “cic”. Thơ tạo nên một hình ảnh nhân hoá. Ve sầu là loài động vật nhưng biết kêu, biết kêu khiến khu rừng trở nên “vàng”. Chúng ta nên dành một chút thời gian để tìm hiểu về khu rừng hổ phách kỳ lạ này. Đỗ quyên là một loại cây thân gỗ ở các khu rừng phía Bắc Việt Nam, nở hoa vàng vào đầu mùa hè. Tiếng ve kêu nối tiếp nhau, báo trước mùa hè đến, nhưng đã là cuối hè rồi. Lá úa vàng, cả khu rừng như được khoác áo mới, những chiếc áo vàng lấp lánh trong nắng. Khung cảnh thiên nhiên đã đẹp, vừa lộng lẫy lại càng lãng mạn, bởi trong cánh rừng bạt ngàn ấy, có bóng dáng cô gái miền núi “một mình hái măng”. Đọc đến đây, chúng ta không khỏi liên tưởng đến một hình ảnh tương tự trong thơ của Ruan Ping, nhà thơ nông thôn trong Phong trào Thơ mới.
Đi dạo trong chiều, khách say nhìn đồi xanh, trời trong xanh vắng lặng, hái những rừng mai.
Đây là khổ thơ đầu tiên của bài thơ Cô nhặt được. Chúng ta thấy một điểm giống nhau rất ngẫu nhiên: có cả khu rừng và cô gái đang làm việc. Chỉ có “hái mơ” chứ không có “hái măng”. Từ “hái” ở đây dường như không thể thay thế bằng các động từ khác như bẻ, cắt… vì chỉ có nó mới phù hợp với sự dịu dàng, uyển chuyển, mềm mại của người con gái. Chúng ta hãy thử tưởng tượng một bức tranh mùa hè có thể đẹp như thế nào nhé! Cảnh thiên nhiên tươi đẹp như vậy được khảm vào hình ảnh một người phụ nữ chuyên nghiệp dịu dàng. Quả thực bức tranh vừa đẹp vừa có hồn. Rõ ràng là thiên nhiên và con người đã hòa nhập và tôn tạo lẫn nhau.
Cuối cùng, bài thơ kết thúc bằng một hình ảnh đẹp không kém của mùa thu:
“Rừng thu trăng soi bình yên, nhớ câu hát ân tình thủy chung”
Một câu thơ rõ ràng, đó là mùa thu. Thiên nhiên mùa thu được miêu tả qua ánh trăng. Việc sử dụng hình ảnh mặt trăng thực ra không có gì độc đáo và mới lạ. Tuy nhiên, trong hoàn cảnh miền Bắc Việt Nam lúc bấy giờ, chúng ta mới thấy được ước mơ hòa bình của cán bộ và toàn thể nhân dân Việt Nam. Có ý kiến cho rằng, thắng lợi của cách mạng là thắng lợi của đất nước.
Câu này thiếu cụ thể nên người ở đây cũng thiếu cụ thể. Từ “ai” được làm mờ, tạo ngữ cảnh cho cả đoạn văn và cũng là câu trả lời cho câu hỏi đầu tiên: “Khi về có nhớ anh không?”. Tuy rằng hỏi, nhưng trong lòng bọn họ vẫn biết người này vẫn là trung thành. Câu này ngân vang trong lòng người đi và kẻ ở.
Qua đây ta có thể thấy bao trùm cả bài thơ là nỗi nhớ nhung, tha thiết tiếp nối âm hưởng chung của nghệ thuật dân gian. Những câu thơ nhịp nhàng, uyển chuyển, những ý tưởng, gợi mở tuôn trào trong tâm trí người ra đi và người ở lại. Đặc biệt là bằng cách “tôi” được xưng hô bằng “tôi”. Ở đây, cụm từ “nhớ” được sử dụng để tập trung vào nguồn cảm hứng chính, đó là sự nhớ lại. Thêm vào đó, âm điệu nhẹ nhàng, da diết tạo cho cả bài thơ một âm hưởng da diết, êm ái, như một lời ru, một khúc ru của ký ức. Có thể lời ru này không của riêng ai, chỉ của riêng “tôi”, của người nhận là “tôi”. “Ta” và “ta” cùng chung một nỗi nhớ, cùng một “khúc tình ca”, tình cảm ấy vẫn ám ảnh tâm hồn thủy chung.
Có thể nói đây là bài thơ hay và có giá trị nhất thời Bắc Tống ở Việt Nam. Cảnh con người và thiên nhiên trong bài thơ được miêu tả vô cùng kì diệu và đẹp đẽ, tràn đầy sức sống. Với giọng thơ ngọt ngào, bài thơ này như một bản tình ca về lòng trung thành và sự tận tụy của những người cách mạng đối với nhân dân Việt Nam với Tổ quốc.
Phân tích sơ đồ tứ tuyệt trong bài thơ trắng Việt Nam – Ví dụ 6
Những bài thơ văn xuôi để lại nhiều cảm xúc sâu lắng trong lòng người đọc với giọng điệu tình cảm, ngọt ngào, tha thiết. “Chiến tranh Việt Nam” là bài thơ nổi tiếng được tác giả viết vào năm 1954. Những cảm xúc, hình ảnh và suy nghĩ trong tác phẩm mà nhà thơ gửi đến người đọc càng khiến chúng ta yêu mến và trân trọng hơn tâm hồn và tài năng của mình. Sơ đồ tứ tuyệt trong bài cũng là một nét độc đáo gây nhiều ấn tượng cho người đọc.
Chất thơ rực lửa đọng lại trong bức tranh tứ bình về con người và cảnh vật thiên nhiên Tây Bắc, trước hết là bức chân dung cảnh mùa đông:
“Em về rồi, anh có còn nhớ về em không? Em nhớ hoa và người rừng xanh, hoa chuối đỏ tươi, đèo cao nắng và dao nhẹ thắt lưng. “
Một mùa đông lộng lẫy và ấm áp ở vùng núi Tây Bắc được nhà thơ miêu tả một cách sinh động. Đang là mùa đất trời giao mùa với những bông hoa chuối rừng “đỏ rực”, “tươi thắm”, nắng ấm lấp ló trên nền xanh êm đềm của cây lá, tràn ngập không gian khoáng đạt. Trong khung cảnh thơ mộng ấy, người Việt Bắc toát lên vẻ đẹp khỏe khoắn trong tư thế lao động: “dao kề thắt lưng”. Từ “nắng” làm cho lời thơ như tươi sáng hơn, giúp tô đậm vẻ đẹp của những người lao động, những con người có chí khí vươn lên. Mùa đông trong thơ cổ thường miêu tả sự hoang vắng, hiu quạnh, gió lạnh và không khí hoang vắng. Dong Hao từng viết:
“Tôi nhớ: một buổi sáng mùa đông lạnh giá, gió bắc rít qua cửa sổ, gió rít qua khung cửa sổ, nhưng chỉ có gió là lạnh”
Như nhà thơ Wu Zhilan đã nói:
“Lò sưởi bên cạnh tôi có ngọn lửa hồng để xoa dịu nỗi buồn, ly rượu mùa đông và hơi lạnh từ tuyết xuyên qua rèm cửa
Gió thổi mùa băng và làm mặt sông trong vắt “
Nỗi buồn, nỗi buồn ta không thấy trong thơ mùa đông. Nhà thơ miêu tả mùa đông Tây Bắc với những gam màu tươi tắn, ấm áp và đầy sức sống. Những người trong cảnh đó đều khỏe mạnh và năng động.
“Mùa xuân rừng nở hoa trắng, nhớ người đan nón, mài sợi”
Đây là cặp câu thơ lục bát tiếp theo của nhà thơ miêu tả thiên nhiên và con người Việt Nam vào mùa xuân. Sự dịu dàng, trong sáng và thuần khiết của những bông hoa mai trắng trong “Hoa nở giữa rừng” khiến lòng người đọc trào dâng. Trong khung cảnh ấy, con người hiện lên trong những tác phẩm đời thường giản dị. Động từ “mài giũa” thể hiện một cách tinh tế tài năng, sự chăm chỉ và khéo léo của những người làm nghề nơi đây. Nét thanh tao nên thơ của đất trời và sự dung dị, chan hòa của con người làm cho quan niệm nghệ thuật thơ càng thêm nổi bật và ấn tượng.
Nhà thơ Bombalan đã từng bày tỏ cảm xúc của mình trong bài thơ “Buổi trưa hè”:
“Trời cao lồng lộng gió chẳng buông. Thảo nguyên cào cánh hồng khô, sóng lụa trên rơm, nhạc vó ngựa, xa xa, quán âm xưa thơ thẩn trong nắng, the khách thừa ngủ gà ngủ gật, Nghe mồ hôi chảy ròng ròng, đứng trên mây mà thả diều ”
Mùa hè với đại bàng là thế, bình yên đến khó quên. Và đối với huu, mùa hè ở miền Bắc Việt Nam là:
“Con ve sầu tên Lin Daojin, tôi nhớ chị tôi hái măng một mình”
Màu sắc tươi sáng của khu rừng hổ phách và tiếng ve kêu được nhà thơ tái hiện một cách chân thực. Từ “ngâm” trong bài thơ được coi là nhãn quan bộc lộ trọn vẹn tâm tư của nhà thơ. Có lẽ, nhà thơ đang nói đến mối quan hệ kỳ diệu giữa âm thanh và màu sắc khiến cảnh vật nơi đây như có hồn và có sức cộng hưởng mãnh liệt. Con người Việt Nam hiện lên thật trầm lắng nhưng vẫn rất đỗi dịu dàng như một điểm nhấn sâu sắc trong không khí sôi động của thiên nhiên mùa hè.
Được nhắc đến ở phần cuối, nhưng cách thể hiện mùa thu của nhà thơ vẫn để lại cho người đọc nhiều ấn tượng và hoài niệm. Tiếng Việt rõ ràng. Việt Nam thanh bình dưới ánh trăng. Đây là những gì chúng ta cảm nhận được qua hai câu thơ:
“Rừng thu trăng soi bình yên, nhớ câu hát ân tình thủy chung”
Trong khung cảnh dịu dàng của thiên nhiên, con người hiện lên với tình cảm thân thương trong tiếng hát ân tình, đó cũng là tiếng nói của lòng trung thành cách mạng đầy nghĩa khí.
Để có thể phác thảo ra bức tranh tứ bình sinh động về cảnh sắc thiên nhiên và con người Việt Nam, nhà thơ đã sử dụng một cách tài tình cả phong cách cổ điển và hiện đại. Sự tinh tế và tài hoa này đã tạo cho hình tượng thơ trong “Việt Nam” có một vị trí đặc biệt trong lòng bao thế hệ người đọc, thúc đẩy nhiều bài thơ, bài văn về “hình tượng tứ bình” ra đời.
Phân tích sơ đồ tứ trong bài thơ Tiếng Việt – Ví dụ 7
Nhắc đến Việt Bắc là nhắc đến nơi sinh ra cách mạng, đến mảnh đất miền Trung nghèo khó nhưng thân thương – mảnh đất ghi dấu bao kỷ niệm của bao thời cách mạng gian khổ và hào hùng. Vậy nên khi xa nhau làm sao lòng ta không vương vấn.
Và cứ thế, sợi dây ký ức và sợi dây tình yêu đan xen vào nhau, chẳng khác gì “ta-ta” của đôi lứa yêu nhau. Như nhà thơ trữ tình Lanvien đã từng viết “Khi ta ở trên mảnh đất này chỉ là nơi ở / Khi ta bước đi trên mảnh đất này bỗng trở thành tâm hồn”. Đúng! viet bac biến tâm hồn đằm thắm trong thơ mình, lời ca như tiếng nhạc ngân nga, người trong cảnh đong đầy những kỷ niệm khó quên không bao giờ quên.
“Một khi ta về, ta nhớ ta khi ta về, ta nhớ hoa và người rừng xanh, hoa dã quỳ đỏ tươi, đèo cao, nắng, dao thắt lưng, ngày xuân, giấc mơ hoa trắng, Lin Yi người thợ dệt nón, Dệt từng sợi rừng. Jinbeat nhớ em gái tôi hái măng một mình mùa thu, chụp ảnh trăng sáng, nhớ khúc tình ca “
Tou Hu là một nhà thơ trữ tình chính trị có tình cảm cách mạng rất nhẹ nhàng nhưng cũng rất sâu sắc. viet bac là đỉnh cao của thơ lục bát nói riêng và thơ ca chống Pháp nói chung. Bài thơ này được viết vào tháng 10 năm 1954, khi Trung ương Đảng, Bác Hồ và các đồng chí cán bộ kháng chiến rời “thành phố ngàn gió” về Ba Đình, “thành phố hoa vàng và nắng vàng”. Cả bài thơ là nỗi nhớ da diết, da diết mà vui tươi, hào hùng. Nhưng điều để lại ấn tượng sâu sắc nhất trong các bài ca dao Bắc Bộ có lẽ là những câu thơ của bức tranh tứ bình xuân, hạ, thu, đông.
Phần phụ mở đầu là hai câu giới thiệu nội dung bao hàm cảm giác chung của thánh thư:
“Anh về em, nhớ anh, nhớ hoa”
Trong khổ thơ thứ nhất, câu hỏi tu từ “em có nhớ anh không?” được sử dụng và khổ thơ thứ hai là câu tự trả lời. Phép ám chỉ “ta” được lặp lại bốn lần và âm “a” được sử dụng như tiếng mở đầu nên câu thơ có âm hưởng sâu lắng, thiết tha. Với Tuohu, những người cán bộ ra đi không chỉ nhớ về những ngày tháng vất vả “nửa chăn nửa cơm”, mà còn nhớ vẻ đẹp yêu kiều của hoa và người. Nơi đây, loài hoa tượng trưng cho vẻ đẹp thiên nhiên của miền Bắc. Con người là người Việt Nam, khoác trên mình chiếc áo chàm nghèo nhưng giàu có. Hoa và người hòa quyện với nhau mang vẻ đẹp hài hòa, đằm thắm tạo nên nét riêng, độc đáo của vùng đất. Đây là điều tạo nên cấu trúc độc đáo cho thơ. Trong bốn cặp lục bát còn lại, sáu đoạn là nhớ hoa, cảnh, tám đoạn là nhớ người. Cảnh và nhân vật trong mỗi câu đều có sắc thái và đặc điểm riêng rất lôi cuốn.
Khi nghĩ đến mùa đông, chúng ta thường nghĩ đến cái lạnh buốt giá, sự u ám của mưa phùn và gió lớn, nỗi buồn của thời tiết u uất. Nhưng đến Việt Nam bằng thơ lục bát mới là chuyện lạ. Mùa đông ấm áp đến lạ thường:
“Rừng xanh, hoa chuối đỏ tươi” Đưa ánh nắng qua đèo cao “
Nền xanh bạt ngàn của khu rừng được điểm xuyết bởi những bông hoa chuối đỏ tươi khoe sắc trong nắng. Nhìn từ xa, loài hoa này như một ngọn đuốc sáng, phác họa nên một bức tranh mà đường nét, màu sắc vừa đối lập, vừa hài hòa, vừa cổ điển vừa hiện đại. Màu “đỏ tươi” – màu rực lửa của hoa chuối nổi lên giữa núi rừng xanh tươi, khiến thiên nhiên Việt Nam bừng sáng, ấm áp, như có sức sống tiềm ẩn, xua tan đi vẻ hoang sơ. Núi và rừng. Bài thơ này làm chúng ta liên tưởng đến màu đỏ của hoa lựu trong bài thơ của Ruan Cui:
“Thạch lựu còn phun ra đỏ hồng, hết mùi thơm”
Từ sự liên tưởng này, ta có thể thấy mùa đông trong bài thơ còn lan tỏa hơi ấm của mùa hạ, không phải vì sắc đỏ của hoa chuối và cái lạnh bừng lên từ màu xanh của núi rừng.
Hiện ra với ánh sáng lung linh của hoa chuối là những người dân chiến khu lên nương làm rẫy, khai phá nương rẫy, sản xuất lúa, khoai với số lượng lớn để cung cấp cho những người “đèo cao” kháng chiến. “Ngọn đèn ca dao”. Trước thiên nhiên bao la, con người dường như càng trở nên mạnh mẽ và hùng vĩ, ở đây nhà thơ không khắc họa gương mặt mà ghi lại thần thái lộng lẫy nhất chính là ánh nắng lóe lên trên ngọn đao. của cánh rừng quanh eo Người ở đây thơ mang ngôn ngữ thơ cũng như ngôn ngữ của nhiếp ảnh Con người là tâm điểm của ánh sáng, con người ấy cũng xuất hiện trong tư thế đẹp nhất – “đèo cao”. Con người chiếm đầu núi, chiếm rừng, tự do “Rừng là ta Bầu trời xanh, đây là của ta” Đó là một cử chỉ lái xe đầy tự hào và đĩnh đạc: giữa núi và nắng, giữa trời bao la và xanh vô tận. rừng. Người đàn ông đó đã trở thành bức tranh mùa đông của linh hồn Việt Cộng.
Mùa đông đã qua và mùa xuân đã đến. Khi chúng ta nghĩ đến mùa xuân, chúng ta nghĩ ngay đến cỏ cây, hoa lá và hàng trăm loài đang bừng tỉnh với sức sống mới sau một mùa đông dài. Điều này cũng đúng với mùa xuân ở miền Bắc Việt Nam:
“Mùa xuân rừng nở hoa trắng, nhớ người đan nón, mài sợi”
Bao trùm lên khung cảnh mùa xuân là những bông hoa mai trắng nhẹ nhàng, trong trẻo, tinh khôi trên khắp núi rừng, đồng bằng: “Hoa mai xuân thảo”. “Forest White” được viết ngược, từ “trắng” được dùng như một động từ để nhấn mạnh màu sắc, và màu trắng dường như bao trùm lên toàn bộ màu xanh của lá, làm bừng sáng cả khu rừng. Màu trắng dịu mát của hoa mai. Động từ “nở hoa” lan tỏa năng lượng của mùa xuân, tràn đầy sức sống. Đây không phải là lần đầu tiên cụ Hồ viết về màu trắng, năm 1941, Việt Nam đón Bác với màu hoa mai:
“Ôi, buổi sáng mùa xuân này, bốn mươi mốt mùa xuân nở trắng bìa rừng, giấc mơ êm đềm, chim hót lau sậy, vui ngẩn ngơ”
Mùa xuân đang ngày càng tươi mới và hình ảnh của một người xuất hiện trong chiến dịch “Đến với mọi chủ đề”. Vẻ đẹp tự nhiên trong công việc hàng ngày. Từ “sáng”, một hình ảnh thơ thể hiện bàn tay của nhân dân lao động: cần cù, tỉ mỉ, khéo léo, tài hoa, nhanh nhẹn, cẩn thận, đây cũng là phẩm chất cần cù của người Việt Bắc.
Với tiếng ve kêu râm ran trong mùa hè, bức tranh Việt Nam trở nên sống động hơn bao giờ hết:
“Con ve sầu tên Lin Daojin, tôi nhớ chị tôi hái măng một mình”
Khi tiếng ve kêu râm ran cũng là lúc cả rừng hổ phách hoàng kim. Động từ “to pour” là một động từ mạnh, mô tả sự đồng loạt ngả vàng của những bông hoa hổ phách vào đầu mùa hè. Màu của cây hổ phách truyền vàng vào lòng suối dường như biến nắng hè và tiếng ve hót ríu rít trở nên vàng rực. Đó là một bức tranh sơn mài hoài cổ, vì vậy nó lung linh với vẻ rực rỡ và âm thanh khàn khàn. Các yếu tố mô tả không chỉ vẻ đẹp độc đáo của mỗi mùa, mà còn cả sự chuyển động thay đổi của thời gian và cảnh vật. Trong phần trên, chúng ta có thể thấy toàn bộ thời gian được luân chuyển một cách sống động: tiếng ve kêu của ve sầu báo hiệu mùa hè đến, và những cây hổ phách chuyển sang màu vàng rực rỡ. Đây là một biểu hiện độc đáo của chủ nghĩa dân tộc.
Trong thiên nhiên trù phú vàng son ấy, có hình ảnh cô gái áo chàm cần mẫn hái măng trong rừng để tiếp tế cho các chiến sĩ kháng chiến: “Nhớ chị em mình hái măng một mình”. Đi hái măng một mình sẽ không hiu quạnh, hiu quạnh như cô gái miền núi trong thơ cổ, ngược lại rất trữ tình, nên thơ, gần gũi và nhân hậu. Hình ảnh thơ còn gợi lên vẻ đẹp không đau thương của người con gái. Đằng sau này rất nhiều sự đồng cảm và trân trọng của tác giả.
Vào mùa thu, khung cảnh núi rừng chiến khu như được tắm mình trong ánh trăng xanh, lung linh và dịu mát:
“Rừng thu trăng soi bình yên, nhớ câu hát ân tình thủy chung”
Cả không gian rộng lớn ngập tràn ánh trăng, ánh trăng của tự do và hòa bình, soi sáng từng ngọn núi, từng bản làng, từng niềm vui của thôn xóm. Khi chúng tôi còn ở chiến khu, tôi cũng biết ánh trăng mùa thu trong bài thơ của bạn:
“Trăng sáng vào cửa sổ xin bài thơ về việc quân bận rộn. Xin chờ ngày sau, tiếng chuông thu chợt vang lên báo tin thắng trận xuyên vùng”
Không có chuông chiến thắng, nhưng có thể nghe thấy tiếng hát. Đó là bài ca trong sáng của nhân dân các dân tộc, là bài ca nhắc nhở sự thủy chung son sắt. Đây cũng là bài hát về tình yêu núi rừng Việt Bắc 15 năm.
Có! Bức tranh mùa thu của Việt Cộng hoàn thành bức tranh về vẻ đẹp của núi rừng và kết thúc bằng bài thơ “Tình không phai”, gợi lên tình cảm sâu nặng với quê hương. nước.
Bài thơ trên của Hu có nét vẽ cổ kính, vừa cổ điển vừa hiện đại, làm nổi bật những cảnh vật, hình tượng bốn mùa ở Chiến khu Việt Nam. Cảnh và nhân vật phối hợp và làm đẹp cho nhau, làm cho bức tranh trở nên thân thuộc, sinh động và tình cảm hơn. Mọi thứ đều hóa thành nỗi nhớ da diết, rạo rực trong tâm hồn những người cán bộ trở về.
Phân tích sơ đồ tứ tuyệt trong bài thơ Đường trắng Việt Nam – Ví dụ 8
Tou Hu là nhà thơ cách mạng tiêu biểu chống thực dân Pháp trong phong trào thơ ca Việt Nam. Việc làm của ông như một vũ khí chống quân xâm lược, cổ vũ, động viên tinh thần yêu nước của nhân dân.
Bài thơ “Việt Bắc” được viết khi tác giả đóng quân ở Việt Bắc. Bài thơ này nói lên tình quân dân sâu nặng, khi từ biệt những người đã bỏ lại bao nhiêu nỗi nhớ, khi chia tay lại viết nên một bài thơ tình, nghẹn ngào.
Cả bài thơ là một dòng tâm sự, nói lên tình cảm giữa họ với ta, tình quân dân thắm thiết, sâu nặng. Tác giả là người từng tham gia kháng chiến chống thực dân Pháp. Vì vậy, những vần thơ của anh rất bình dị, giản dị và gần gũi, khi đọc thơ người ta mới cảm nhận được sự thiêng liêng, nặng trĩu trong tình cảm của người lính.
Thơ Việt bac viết theo thể lục bát truyền thống, gần gũi với người nghe. Trong thơ nghệ thuật so sánh, việc sử dụng ẩn dụ rất linh hoạt, thể hiện sự tinh tế trong phong cách ngôn ngữ của tác giả. Đặc biệt tác giả vẽ nên những bức tranh về cảnh đẹp thiên nhiên và con người Việt Nam, bài thơ này còn làm rung động lòng người.
Tôi nhớ khi trở về, tôi nhớ hoa của bạn
“ta” và “ta” thể hiện tình quân dân nhưng bằng ngôn ngữ giản dị, thể hiện sự gần gũi như người thân trong gia đình, như người bạn tri kỷ lâu ngày. Bây giờ tôi phải xa bao nhiêu tâm sự, bao nỗi nhớ nhung, lưu luyến không muốn rời xa
Tác giả để huu thật tài tình, đưa người đọc đến với khung cảnh vô cùng thơ mộng và lãng mạn của núi rừng Việt Nam, miêu tả một mùa đông ấm áp nhưng chan chứa tình yêu và niềm tin. Người tốt ở đây.
Rừng xanh, hoa chuối đỏ tươi, đèo cao nắng vàng, thắt lưng buộc dây
Chương mở đầu thiên nhiên Việt Bắc làm người đọc choáng ngợp, bởi núi rừng Tây Bắc Trung Quốc vô cùng trữ tình và đẹp đẽ. Những bông hoa chuối đỏ tươi nở vào mùa đông lạnh giá khiến khung cảnh thiên nhiên tuy lạnh giá nhưng lại sinh động và ấm áp lạ thường, bởi màu đỏ của hoa chuối rừng chính là nét quyến rũ của núi rừng Việt Nam. .Hình ảnh cô gái hái măng, hái nấm với con dao sắc bén là vũ khí tự vệ, công cụ lao động, thể hiện sức sống của con người trong công việc hàng ngày
Trong khi đó, cái nắng mùa đông lại làm cho không khí trở nên ấm áp hơn bao giờ hết, thay vì những gam màu u ám, ảm đạm mà chúng ta thường thấy trong những bài thơ khác về mùa đông. Mùa đông trong thơ vẫn đẹp, sống động và quyến rũ.
<3
Ở hai câu thơ này, tác giả linh hoạt chuyển thời gian từ mùa đông sang mùa xuân. Từ những bông hoa chuối rừng đỏ tươi đến những bông mai trắng tinh khôi đều thể hiện không khí xuân đang tràn ngập trên mảnh đất Tây Bắc.
Hoa mai là sự báo trước của mùa xuân, vì loại hoa này thường báo trước mùa xuân, chẳng hạn như hoa đào và hoa mai. Đoạn thơ hé lộ một rừng hoa mai trắng thơm ngát làm say lòng người, khiến người đọc ngất ngây trước vẻ đẹp của thiên nhiên nơi đây. Hình ảnh cô gái mài từng sợi dây thừng để gói bánh chưng, bánh tét, làm nón lá khiến không khí xuân gần gũi, ấm áp hơn bao giờ hết
Những hình ảnh thiên nhiên đẹp đẽ nhưng luôn gắn liền với con người nơi đây. Khi tác giả nhắc đến cảnh sắc thiên nhiên núi rừng Việt Bắc, tác giả luôn ghi nhớ con người và vạn vật nơi đây, thể hiện tình cảm của tác giả đối với mảnh đất đã 15 năm gắn bó với mảnh đất này.
Tên tôi là Forest Dianjin, tôi nhớ chị gái đi hái măng một mình
Đối với mùa hè, tiếng ve kêu của ve sầu là dấu hiệu của mùa hè đến. Mùa hạ là mùa của sức sống, khác hẳn với sự ấm áp của mùa đông, thanh khiết của sắc xuân, khi hè về, núi rừng Việt Nam lại le lói tiếng ve, màu vàng của hổ phách quyện với tiếng ve kêu. Đối với bản chất ở đây. Tiếng ve kêu đã phá vỡ sự im lặng, thể hiện sự thay đổi mạnh mẽ của thời gian.
Bức tranh thiên nhiên về mùa hè núi rừng Việt Nam, màu vàng rực của hổ phách, tiếng ve kêu râm ran. Trong mỗi bức tranh, tác giả luôn kết hợp những bóng dáng của thiên nhiên và con người, thể hiện sự kết hợp nhuần nhuyễn giữa con người và thiên nhiên nơi đây.
Trong không gian núi rừng Việt Nam rộng lớn, tác giả đã khéo léo kết hợp thiên nhiên với hình ảnh cô gái hái măng, đó là một hành động thiên nhiên quen thuộc, gần gũi và nhẹ nhàng. thơ.
Rừng thu, trăng soi bóng bình yên, ai nhớ câu hát ân tình thủy chung
Hình ảnh mùa thu trên núi rừng Việt Nam thật dịu dàng, thơ mộng, còn hình ảnh ánh trăng thanh bình, trong sáng, thơ mộng thể hiện sự trung thành, thủy chung của con người nơi đây với cách sống của mình. Sống cùng những chiến sĩ dũng cảm hy sinh để bảo vệ Tổ quốc và mảnh đất thân yêu này.
Qua bài thơ này, chúng ta thấy tác giả vô cùng sâu sắc và tinh tế trong cả ngôn ngữ lẫn cách quan sát. Anh khéo léo phác họa những bức tranh thiên nhiên tứ bình và con người Bắc Mỹ khiến người đọc ám ảnh, khó quên.
Phân tích ngắn gọn bức tranh thơ tứ tuyệt Việt Bắc — Ví dụ 9
Nhắc đến những nhà văn, nhà thơ cách mạng trưởng thành trong hai cuộc kháng chiến chống Nhật, chúng ta không thể không nhắc đến người bạn có giọng thơ đầy sức chiến đấu, lí tưởng và trữ tình chính trị. Tuy nhiên, trong những vần thơ ấy vẫn phảng phất chất trữ tình, chất thơ, hình tượng uyển chuyển, tươi sáng. Câu thơ tứ tuyệt trong thơ ca miền Bắc Việt Nam là một ví dụ điển hình:
“Em về rồi, anh có nhớ khi về không, nhớ hoa và người rừng xanh, hoa dã quỳ đỏ rực trên cao, nắng chiếu thắt lưng, mùa xuân nở trắng. trong mơ rừng nhớ nón đan Người đan từng sợi Rừng hổ phách vàng nhớ chị em hái măng một mình Rừng thu trăng soi bình yên nhớ ai câu hát ân tình thủy chung. ”
Bài thơ này là bức tranh về đất nước Việt Nam trải dài bốn mùa, chứa đựng nỗi nhớ da diết và lòng trung thành của tác giả, đặc biệt là những người cán bộ Việt Nam:
“Anh về rồi, anh có nhớ em khi anh về không, anh nhớ hoa của em”
Hai bài thơ là những câu hỏi, câu chuyện của những người đã khuất, băn khoăn của lòng người để lại và bày tỏ nỗi lòng của mình. Điệp ngữ “Ta đã về” mở ra hai câu thơ, như muốn nói lên nỗi niềm của người ra đi. Cái hay của bài thơ này nằm ở hình tượng “hoa và người”, người và hoa trong vườn Việt Nam. Hình ảnh tạo nên sự hài hòa giữa thiên nhiên và con người, hoa và người khi hòa quyện, khi tách rời tôn lên vẻ đẹp của nhau. Bên cạnh những hình hoa lá và con người là những bức tranh về bốn mùa của đất nước Việt Nam, được vẽ rất chân thực với màu sắc tươi tắn và âm thanh rộn ràng:
“Rừng xanh, hoa chuối đỏ tươi, nắng như thiêu, thắt lưng dao”
Vào mùa đông, núi rừng xanh ngắt vô tận. Tác giả miêu tả mùa đông trước, có lẽ vì khi những người cách mạng đến đây cũng là mùa đông trên đất nước này, và mười lăm năm sau, những người cách mạng cũng tạm biệt cái nôi của cách mạng Việt Bắc.
Dưới nền xanh của rừng sâu, những bông hoa chuối đỏ tươi hiện ra khiến núi rừng không còn lạnh lẽo, man rợ mà ấm áp vô cùng. Những bông hoa đồn điền ẩn hiện trong sương như những ngọn đuốc hồng, soi sáng con đường ta đã từng bắt gặp trong thơ ca phương Tây: “Hoa Măng Cụt Về Đêm”. Cái “đỏ tươi” của hoa chuối như xóa tan đi sự hiu quạnh của mùa đông lạnh giá nơi núi rừng, như chứa đựng sức sống của đất trời. Sự tương phản về màu sắc và sự hài hòa của cách diễn đạt khiến mùa đông ở đây mang một chút mùa hè ấm áp trong các bài thơ của Ruan Cui:
“Thạch lựu vẫn phun ra màu đỏ hồng và có mùi thơm”
Trong bản chất như vậy, vẻ đẹp của người phương Bắc được thể hiện theo một cách rất độc đáo:
“Qualcomm với con dao dưới ánh nắng mặt trời”
Người Việt Nam trong rừng luôn mang theo một con dao để dọn chướng ngại vật và ngăn chặn động vật hoang dã. Ở đây tác giả không miêu tả khuôn mặt và phong thái mà là ánh sáng phản chiếu bởi lưỡi kiếm thắt lưng. Mặt trời chiếu sáng khiến con dao sáng lên, để lại ấn tượng khó phai, như thể con người là nơi hội tụ ánh sáng, vừa lấp lánh vừa tỏa sáng. Con người được đặt ở trung tâm “đèo cao, nắng hạ”, trung tâm giữa núi rừng Tây Bắc, với voi siêu thoát không gian, làm chủ thiên nhiên, voi làm chủ đất nước, vĩ đại.
Mùa đông đã qua, mùa xuân đã qua. Mùa xuân ở Việt Nam đến rồi, sắc trắng của hoa mơ làm bừng sáng cả khu rừng:
“Mùa xuân rừng nở hoa trắng, nhớ người đan nón, mài sợi”
Nhắc đến mùa xuân là người ta nhắc đến khi khí hậu mát mẻ, khi thảm thực vật đua nhau khoe sắc, đâm chồi nảy lộc. Nắng xuân trên đất Bắc Việt Nam được tổ tiên nhìn bằng một cách rất riêng: “giấc mơ trắng trong rừng”. Bức tranh lật “White Forest” sử dụng từ “trắng” như một động từ, không phải là một tính từ chỉ màu sắc. Ngoài ra, động từ “nở rộ” giống như sắc trắng trải rộng lấn át hết màu xanh của lá rừng, tạo nên một không gian trong lành, mát mẻ của hoa mai khiến bức tranh thêm thanh khiết, lắng đọng. yêu thương nhiều hơn.
Trên nền trắng của hoa mai, nổi bật lên hình ảnh người lao động hiền lành, cần cù: “Chải từng gốc non sông”. Con người đẹp tự nhiên trong công việc hàng ngày của họ. Động từ “chuối” kết hợp với trợ từ “từng” thể hiện bàn tay điêu luyện, tỉ mỉ và tài hoa của người thợ. Đây cũng là những phẩm chất tốt đẹp của con người Việt Nam anh hùng nhưng cũng rất đỗi hào hoa.
Mùa hè đến rồi, tiếng ve kêu râm ran khắp núi:
“Con ve sầu tên Lin Daojin, tôi nhớ chị tôi hái măng một mình”
Tiếng ve kêu làm vàng lá. Dường như chỉ cần tiếng ve kêu thôi là tiết trời đã chuyển từ xuân sang hạ rồi. Bài thơ có nét tương đồng với “tiếng chim hót, soi cả rừng” của khương. Chỉ một câu thơ thôi đã gợi lên sự vận động của thời gian và cuộc đời. Và trên nền vàng của rừng hổ phách hiện lên một hình ảnh thân thương khiến bức tranh càng trở nên thơ mộng, trữ tình. Đó là hình ảnh: “Chị hái măng một mình” hái măng một mình tuy không đơn độc nhưng lại toát lên vẻ đẹp của người phụ nữ cần cù lao động. Bài thơ bày tỏ lòng thương cảm, biết ơn vô hạn đối với người dân Việt Bắc mà những ai đã từng ở sẽ không bao giờ quên được những tình cảm chân thành ấy.
Rồi mùa thu miền Bắc Việt Nam đến cùng với vầng trăng thu tuyệt vời làm cho khung cảnh núi rừng Việt Nam thơ mộng, thanh bình và đầy bình yên. Từ đêm trăng thu huyền diệu ấy, bản tình ca thủy chung của dân tộc Việt Nam lại vang lên làm ấm lòng người:
“Rừng thu trăng soi bình yên, nhớ câu hát ân tình thủy chung”
Ở đây không có tin chiến thắng, nhưng có những bản tình ca của người Việt Bắc, những bài ca của núi rừng Tây Bắc mười lăm năm trời. Bài Tình ca đã kết lại thành công bức tranh tứ bình về thiên nhiên và con người, nhắc nhở người ra đi, người ở lại và người đọc hiện tại rằng tình yêu quê hương đất nước còn âm vang sâu sắc.
Nếu câu này nói về cảnh, thì câu này nói về người. Cái hay của bài thơ này là sự giao hòa giữa thiên nhiên và con người Việt Nam. Cảnh đẹp Việt Nam thơ mộng, trữ tình, với sức sống dồi dào làm nền đã làm nổi bật hình ảnh con người Việt Nam đáng yêu, cần cù, đảm đang, trung thành, thủy chung.
Với những nét vẽ giản dị và bình dị, bức tranh tứ bình của Việt Nam đã miêu tả sự hòa quyện giữa con người và thiên nhiên xưa và nay, tạo nên một bức tranh hài hòa giữa thiên nhiên và cuộc sống. Bài thơ là một nét đặc sắc trong phong cách trữ tình chính luận của Dohu, nhắc đến Việt Nam là người ta nghĩ ngay đến một tâm hồn nhân hậu, đầy tình cảm và trung thành.
Phân tích hình ảnh tứ tuyệt trong bài thơ Màu trắng của Việt Nam – Văn mẫu 10
“viet bac” – một bài thơ lục bát mang tầm cao hùng ca với độ dài 150 câu, dạt dào cảm xúc. Bài thơ ra đời vào tháng 10 năm 1054, ngày giải phóng thủ đô Hà Nội. Qua bài thơ này, bạn tôi đã nhiệt tình bày tỏ tình yêu của mình đối với đất nước Việt Nam, cách mạng và cuộc kháng chiến chống Nhật.
Mười câu thơ sau đây, từ câu 43 đến câu 52 trong bài thơ “Việt Nam” cho thấy nỗi nhớ quê hương da diết, thủy chung đến nhường nào:
“Tôi sẽ nhớ bạn khi tôi quay lại,
… Nhớ một người có tiếng nói yêu thương chung thủy. “
Hai câu đầu là câu hỏi đáp dành cho “tôi”, người cán bộ kháng chiến trở về, tôi tự hỏi mình “Có nhớ tôi không?” Dù đi về xuôi rồi xa nhau nhưng lòng ta vẫn hướng về Việt Bắc: “Anh về rồi, em nhớ hoa cùng anh”. Từ “ta” và từ “nhớ” được sao chép để thể hiện lòng trung thành. Nỗi nhớ “hoa và người”, thiên nhiên núi rừng Việt Bắc và nỗi nhớ người Việt Bắc:
“Anh về, em nhớ anh, anh về rồi, em nhớ hoa của anh”.
Từ “me-ta” xuất hiện rất thường xuyên trong các bài thơ và cũng xuất hiện trong hai câu thơ này, thể hiện tốt tình nghĩa vợ chồng trong tình yêu Việt Bắc, đồng thời cũng làm cho giọng thơ trở nên thiết tha như tình yêu. bài hát của quá khứ. Đây là giọng điệu trữ tình và tính dân tộc của thơ Tố Hữu.
Trong tám câu thơ tiếp theo, mỗi cặp lục bát đều nói lên nỗi nhớ cụ thể về một cảnh cụ thể, 4 con người cụ thể trong mùa đông, xuân, hạ, thu.
Nhớ mùa đông, nhớ “màu xanh” của núi rừng Việt Nam, và nhớ “màu đỏ tươi” của hoa chuối, như ngọn lửa thắp sáng rừng xanh. Những con người viết ra những cánh đồng sừng sững giữa trời cao với phong thái hiên ngang, hùng dũng, “dãi nắng…” Shimodian “dao thắt lưng”. Ca dao của người miền sơn cước phản chiếu “ánh dương” rất gợi cảm:
“Rừng xanh, hoa chuối đỏ tươi.” Đèo cao nắng vàng, ánh dao thắt lưng.
Màu “xanh” của rừng, màu “đỏ tươi” của hoa chuối, màu lấp lánh của “nắng” trên ca dao; những màu này phối hợp với nhau làm nổi bật tiềm năng làm chủ thiên nhiên của con người Việt Nam. và cuộc sống trong kháng chiến chống Nhật. Tác giả đã có những hiểu biết mới về sức mạnh tinh thần của quyền làm chủ tập thể của nhân dân ta do cách mạng và cuộc kháng chiến chống Nhật mang lại. Công nhân sản xuất anh dũng đứng bên “Qualcomm” bị nắng gió thổi bay. “Bước chân bị đập tan và ngọn lửa bay đi” khi đám đông đi vận động. Những người lính trong trận chiến mang đến một kỷ nguyên mới của sự bất khả chiến bại:
“Núi không thể nhấc vai che cho lá khỏi gió thổi”.
(“về phía tây bắc”)
Nghĩ đến ngày xuân ở Việt Nam cũng giống như nghĩ đến hoa mai “Bãi Lin nở rộ”. Từ “trắng” là một tính từ chỉ màu sắc chuyển từ loại sang bổ ngữ “trắng rừng nở hoa” gợi liên tưởng đến một thế giới hoa mai, phủ khắp cánh rừng Việt Nam một màu trắng tinh khôi, bạt ngàn. cách sử dụng từ ngữ tài tình của cụ Hưu làm ta liên tưởng đến câu thơ của cụ Nguyễn Du trong “truyện kiều” miêu tả thơ và mùa xuân trinh nữ:
“Cỏ tận chân trời, trên cành lê trắng có hoa”.
Những kỷ niệm về “Dream Kaibailin” và người lập mũ “Zhi Lin Shajiang”. Để “mài” có nghĩa là để chiếu sáng trên các sợi. Chỉ có khéo tay, kiên nhẫn, tỉ mỉ mới đan được nón từng sợi, nón phục vụ kháng chiến, để người lính ra trận “sao súng, sao nón”. Những người thợ dệt nón mà nhà thơ nhắc đến là tiêu biểu cho tài năng và sức sáng tạo của người Việt Bắc. Mùa xuân ở Việt Nam thật khó quên:
“Mùa xuân rừng nở hoa trắng, nhớ ai dệt nón, mài sợi tơ”.
Nhớ đến Yuebei là nhớ đến mùa hè, cùng tiếng nhạc rừng của tiếng ve, màu vàng của rừng hổ phách và cô gái “hái măng một mình” giữa rừng hoa, bần, trúc. :
“Tiếng ve kêu, rừng đổ vàng, em nhớ chị đi hái măng một mình”.
“Đảo ngược” một cách khéo léo. Tiếng ve “đổ” dồn dập, thúc giục mùa hè qua nhanh và khiến rừng càng thêm vàng rực. Xuân hoàng đế cũng có bài thơ bày tỏ nỗi niềm với chữ “đổ”: “Đổ ngọc thấu trời giữa lá…” (Bài thơ duyên – 1938). “Nỗi Nhớ Chị Tôi Đi hái măng Một mình” là một đoạn thơ đặc sắc, giàu nhịp điệu. Có vần lưng: “gái” vần với “hái”. Sự ám chỉ thông qua phụ âm “m”: “mang – một – tôi”. Các bài thơ nên miêu tả âm nhạc và tạo ra một không gian nghệ thuật đẹp và thú vị tràn ngập âm thanh. “Chị đi hái măng một mình” vẫn không cảm thấy cô đơn, bởi chị hoạt động nhạc rừng và hái măng để góp phần vào công cuộc đấu tranh phục vụ “nuôi lính”. Cô gái hái măng là lẽ sống của tuổi trẻ và tình yêu trong bài thơ.
<3
“Rừng thu, trăng soi bóng bình yên, nhớ ai khúc tình chung thủy.”
“Nước từ cây ở Jinboyuan” của Gu Yue. Vầng trăng Việt Bắc trong thơ Bác là “trăng cổ thụ bóng lồng hoa”. Khi cán bộ Kháng chiến chống Nhật về nước, họ nghĩ đến vầng trăng Việt Bắc giữa rừng thu, vầng trăng “soi” lá rừng xanh, vầng trăng thanh mát mang một màu “hoà bình” thơ mộng. “ai” là đại từ nhân xưng phù phiếm, “nhớ ai” có nghĩa là nhớ tất cả, về mọi người dân Việt Nam thủy chung, son sắc, đã hy sinh quên mình cho cách mạng và kháng chiến.
Bài thơ trên chứa chan tình cảm. Niềm khao khát bồi hồi dường như thấm sâu vào cảnh vật và lòng người, khi người ta trở về, tôi lại nhớ đến tôi và chính mình. Tình yêu ấy thật sâu nặng, thật thủy chung. Thời gian trôi qua, những bản tình ca chung thủy ấy sẽ mãi in sâu vào lòng người như vết son đỏ thắm.
Bài thơ này mang vẻ đẹp tứ bình độc đáo, mang đậm phong vị dân tộc. Cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp bắt đầu từ mùa đông năm 1946, đến mùa thu tháng 10 năm 1954, thủ đô Hà Nội được giải phóng – Touhu cũng thể hiện nỗi nhớ Việt Nam qua bốn mùa: đông xuân – hạ – thu, sau dòng chảy của lịch sử. Mỗi mùa đều có vẻ đẹp rực rỡ riêng: màu xanh của rừng, màu đỏ tươi của hoa chuối, màu trắng của hoa mai, màu vàng của hổ phách, màu trắng và xanh yên bình. Thiên nhiên Việt Nam trong thơ ca rất hữu tình, mang vẻ đẹp cổ điển. Những người được nhắc đến không phải là ngư, cá, canh, bụt mà là người ra đồng, người đan nón, chị em hái măng, câu hát ân tình thủy chung, bất khuất. Tất cả đều phản ánh những phẩm chất tốt đẹp của con người Việt Bắc: cần cù, làm chủ thiên nhiên trong lao động, làm chủ cuộc sống, kiên trung, trí tuệ, thông minh, tuổi trẻ lạc quan, yêu đời, nhân hậu, trung thành với cách mạng, kháng chiến.
Giọng thơ ngọt ngào, chân thực đánh thức tâm hồn người đọc. “Chiến tranh Việt Nam” và nỗi nhớ được nhắc đến trong bài thơ này thể hiện một vẻ đẹp thơ ca: trữ tình công dân và dân tộc, tính cổ điển và tính hiện đại được kết hợp trong một phương diện. Một cách hài hòa.
Hình ảnh đẹp, phong phú, gợi cảm. Một không gian nghệ thuật sôi động, đường nét, âm thanh, màu sắc, ánh sáng, kết cấu hài hòa đã để lại ấn tượng sâu sắc trong lòng chúng ta, đúng như lời Bác Hồ đã nói: “Chiến tranh Việt Nam của Lâm Tĩnh thật hay…”
Bài thơ hiện thực “là một hình ảnh, một hình ảnh của một con người…, đánh thức từ một hình ảnh hữu hình một hình ảnh vô hình khổng lồ” (Nguyễn Hối). Đoạn thơ trên gợi lên trong lòng chúng ta tình yêu đối với Việt Bắc, niềm tự hào về đất nước và con người Việt Nam. Bài thơ này “luôn đánh điệp điệp”, để ta thương, ta sẽ nhớ đến tình yêu Việt Nam, tình yêu thời kháng chiến.
Tôi và các bạn cùng tìm hiểu và phân tích các bức tranh tứ bình và dàn ý bài văn trong bài thơ việt bắc. Vậy bạn thấy ấn tượng nhất điều gì ở chi tiết này? Bạn có thể xem thêm các bài văn mẫu khác tại đây.
Tôi chúc bạn đạt được thành tích tốt nhất trong học tập.