– bài đăng mới hơn-
Có thể hiểu rõ hơn rằng nghiệp là kết quả của những hành động, nhận thức, lời nói và suy nghĩ mà con người đã gieo trong quá khứ. Theo “nhân” đã gieo trồng trước đó, người ta có thể phán đoán nghiệp của một người là tốt hay xấu.
Vì vậy, chắc chắn rằng con người là chủ nhân của nghiệp, là nhân tố quyết định của nghiệp, chất lượng của nghiệp là do mỗi chúng ta quyết định.
2. Nguồn gốc của Nghiệp
Người ta có thể nghĩ ngay đến nguồn gốc Phật giáo hoặc Ấn Độ ngay khi từ này được đề cập đến. Nhưng trên thực tế, nghề này đã xuất hiện từ lâu, và có thể nó đã có từ thuở khai thiên lập địa cho đến tận bây giờ.
Karma đã quay trở lại một chặng đường dài, ngay cả trước khi Ấn Độ hay Phật giáo ra đời. Chỉ là trong thế giới giữa người với người, người Ấn Độ nghiên cứu sâu hơn về nghiệp báo. Do đó, Ấn Độ được coi là một quốc gia chứa đựng rất nhiều vật chất và sự hiểu biết về nghiệp thông qua các sách của đạo Hindu, Vệ Đà hay Phật giáo.
Chúng ta vẫn phải phân biệt giữa chữ “thầy” và chữ “đạo”. “Đạo” là “kiếm”, nhưng “thầy” chưa chắc đã là “Đạo”, có thể hiểu là một lối sống hay hệ tư tưởng ở Ấn Độ, được du nhập và hình thành trong nhiều nền văn hóa khác nhau. Quan trọng nhất, nó có một “ngọn giáo” có nguồn gốc từ nền văn minh Lưỡng Hà và Thung lũng Indus của Ấn Độ từ 4000 đến 1500 trước Công nguyên.
Đây là lý do tại sao các nền văn minh cổ đại như Ai Cập rất phát triển về mặt xã hội và sử dụng nghiệp chướng để duy trì công lý, luật pháp, đạo đức và trật tự xã hội. Quan trọng nhất, nghiệp chướng cũng được người xưa áp dụng vào công nghệ thời bấy giờ.
Một trong những “sứ giả của chiêm tinh” là một người Sumarian, người hiểu chủ đề này thông qua bầu trời và chiêm tinh học. Đối với họ, nghiệp là “mu”, là sức mạnh tối thượng mà chỉ có trí óc mới có thể chiếm hữu, sử dụng và ban tặng cho con người.
Ở Ai Cập cổ đại, nghiệp được gọi là “maat” và được thể hiện trong văn hóa Ai Cập cổ đại như một nữ thần rất mạnh mẽ, nữ thần của công lý, trật tự và bảo vệ.
Như người ta thường nói ở thời hiện đại là “coi chừng nghiệp chướng”, người Ai Cập cổ đại có câu rằng “Matt sẽ bỏ rơi bạn”. Điều này cũng cho thấy bản chất của nghiệp đã có mầm mống từ xa xưa, tuy tên gọi của nghiệp trong các thời kỳ hay nền văn hóa khác nhau nhưng bản chất của chúng cũng khác nhau. Điều thú vị là người Hy Lạp gọi vị thần Ai Cập là “maat” “ka maat”, phát âm gần giống với “karma” (nghiệp chướng) trong tiếng Anh ngày nay.
Ở Trung Quốc cổ đại, hàng trăm năm trước thời Khổng Tử, Lão Tử (Lão Tử, 601-500 trước Công nguyên) đã được đưa vào “Tai Shang Yin Pian”. Nhìn vào sách của Lão Tử, bạn có thể thấy quan điểm của ông về nghiệp giống với Ấn Độ giáo hay Phật giáo, nhưng điểm khác biệt là không có quan điểm về tiền kiếp và luân hồi.
Ở Kỳ Na giáo, họ định nghĩa nghiệp rất khác so với trong các nền văn hóa Ấn Độ, Phật giáo hay thậm chí là phương Tây, họ coi đó là “hạt bụi của vũ trụ”, chúng ta là linh hồn, và nếu chúng ta làm điều xấu, chúng sẽ bám vào chúng ta và ảnh hưởng. cuộc sống của chúng ta. Vì vậy, người ta thường nói người tu hành “tay không đụng bụi”.
Đối với các nền văn hóa phương Tây, điều này cũng xuất hiện nhiều lần trong Kinh thánh, chẳng hạn như trong Ma-thi-ơ 26:52; Ga-la-ti 6: 7,8. Tuy nhiên, một số nghiên cứu gần đây cho rằng nghiệp chướng dần dần biến mất khỏi Kinh thánh vào đầu thế kỷ thứ nhất sau Công nguyên.
3. Nghề nghiệp theo quan điểm chiêm tinh
3.1 Chiêm tinh học là gì?
Carl jung từng nói: “Chúng ta sinh ra vào một thời điểm nhất định, một địa điểm nhất định, giống như những thùng rượu lâu năm, mang đầy đủ những đặc điểm của năm tháng. Còn mùa sinh của tôi, chiêm tinh học không hơn không kém”.
Ngay từ thuở tạo hóa, loài người đã như những cá thể lẻ loi trong vũ trụ bao la. Vì vậy, người xưa thường nhìn lên bầu trời và nhìn thấy các vì sao sáng trong đêm, đồng thời cũng được các vì sao giải đáp hoặc chỉ dẫn.
Chiêm tinh học là nghiên cứu về chuyển động của các hành tinh trong hệ mặt trời và các chòm sao và thiên thể trên bầu trời. Từ đó, tìm ra mối quan hệ giữa các hành tinh này ảnh hưởng đến con người trên Trái đất như thế nào. Vì vậy, “nghiệp” có thể được hiển thị trong chiêm tinh?
Các nhà nghiên cứu chiêm tinh có thể rất quen thuộc với rìu la ho và rìu tiếp theo (ở phương Đông được gọi là tay dài / tay đuôi). Đây là cách nghiệp thể hiện trong chiêm tinh học.
3.2 loại nghiệp
Dựa trên nghiên cứu về nhiều tôn giáo khác nhau trên thế giới. Theo tôi quan niệm của Phật giáo về “nghiệp báo là quan niệm hợp lý và đầy đủ nhất. Vì vậy, xin trích dẫn khái niệm“ nghiệp báo ”của Phật giáo để giúp chúng ta xác định rõ hơn về tử vi và tác động của nghiệp báo như thế nào.
Theo Phật giáo, mỗi người chúng ta đều có ba loại nghiệp:
– Tích lũy nghiệp (sanchita karma, tiếng Phạn là सञ्चित): Đây là sự tổng hợp, hợp nhất của hai nghiệp, tức là nghiệp được hưởng và tạo ra hoặc tích lũy trong nhiều kiếp.
– Nghiệp vụ lợi (prarabdha karma, tiếng Phạn là प्रारब्धकर्मन्): Nghiệp này là một phần của nghiệp tích lũy để tạo ra sự tồn tại và thực tại của chính chúng ta trên thế giới này. Có thể hiểu nôm na là bạn sinh ra ở quê đó là cha mẹ như vậy, nên tùy theo nghiệp báo kiếp trước mà định đoạt kiếp này.
– Tạo nghiệp (kriyamana karma, tiếng Phạn là क्रियमाणकर्म): Nghiệp này tạo ra “nghiệp trọng” dựa trên hành động, suy nghĩ và lời nói của chúng ta.
– Những người thụ hưởng Nghiệp được coi là cố định và không thể thay đổi, trong khi hai nghiệp còn lại là linh hoạt và có thể được thay đổi bởi mỗi cá nhân.
– Nhân sinh quan trong chiêm tinh học là một dạng có thể thấy được nghiệp báo có lợi. Do đó, tử vi của chúng ta dựa trên sự di chuyển của các hành tinh khi sinh ra là một biểu hiện của nghiệp mà chúng ta được hưởng trong cuộc sống này.
– Nghiệp đã tạo là loại nghiệp dễ thay đổi nhất. Sự tích lũy nghiệp chỉ có thể xảy ra khi một người đã chết, và người ta phải dựa vào những người còn sống để thay đổi họ. Ví dụ, khi một người vừa qua đời, chúng ta tổ chức tang lễ, cúng bái, cúng dường thì các vị sư đến thỉnh kinh, để nghiệp chướng của người đã khuất nhanh chóng được hóa giải và hóa giải.
– Có nhiều người thường nhầm lẫn nghiệp có lợi với nghiệp sáng tạo. Đó là lý do tại sao chúng ta nghĩ rằng “vận mệnh” có thể dễ dàng thay đổi, chúng ta chấp trước vào nó, kiêu ngạo, luôn cho rằng mình luôn có thể thay đổi vận mệnh. Nhưng không, những gì thuộc về “định mệnh” ngay từ đầu thì dù có thay đổi thế nào cũng vô ích.
3.3 Trường hợp
Bạn được cha mẹ chiều chuộng và tiêu tiền (thiện nghiệp). Nhưng sự gian dối của bạn không chỉ dẫn đến việc hết tiền mà còn mắc nợ người khác (tạo nghiệp)
Bạn không thể tránh khỏi tai nạn xe hơi (nghiệp tốt), nhưng bạn vẫn có thể chọn cách đối phó với nó (nghiệp chướng)
Bạn có một người thân yêu đã qua đời (bạn và của họ), nhưng cách bạn đối xử với họ khi họ còn sống hoặc cách bạn tổ chức tang lễ sẽ quyết định bạn là ai. End or Endless (Karma Creation)
Bạn làm từ thiện (tạo nghiệp) và những người khác nhận được sự giúp đỡ của bạn (nghiệp của họ)
Hai người yêu nhau và kết hôn (nghiệp báo tốt cho cả hai). Nhưng liệu tình yêu có kéo dài hạnh phúc (2 nghiệp nhân tạo)
Hai người gặp gỡ, yêu nhau và nên duyên vợ chồng (phúc báo), nhưng mối quan hệ có duy trì được lâu dài hay không lại là “nghiệp chướng” của hai người.
Một người mang thai (nghiệp lành) nhưng sinh con hoặc bỏ thai (nghiệp của đứa trẻ + nghiệp lợi)
Điều này cho thấy rằng nghiệp là một khái niệm mang tính thời gian đã tồn tại từ thời cổ đại. Trong khi đó đối với chiêm tinh học hay các môn “tử vi” nói chung, nghiệp báo luôn đồng hành với sự tồn tại của phép biện chứng để lý giải số mệnh hay vận mệnh của một người, đặc biệt là trong lĩnh vực chiêm tinh học. tri, bói toán như trên.
– Bài cũ hơn-