Schistosoma, còn được gọi là Schistosoma, được phát hiện vào năm 1858 và phổ biến ở nhiều nơi trên thế giới. Bệnh gặp ở khắp mọi nơi, từ châu Phi, châu Á đến châu Mỹ Latinh và một số đảo ở Thái Bình Dương. Hãy cùng docosan tìm hiểu những thông tin hữu ích về loại ký sinh trùng này trong bài viết dưới đây nhé!
Schistosoma là gì?
Schistosoma là một chi sán, thường được gọi là bệnh sán máng. Chúng là loài giun dẹp ký sinh ở người có thể gây ra nhiều bệnh truyền nhiễm nghiêm trọng, còn được gọi là bệnh sán máng, chỉ đứng sau sốt về mức độ nghiêm trọng. Theo Tổ chức Y tế Thế giới, đó là cảm lạnh.
Giun dẹp trưởng thành thường cư trú trong mạch máu mạc treo ruột hoặc đám rối bàng quang. Schistosoma là loại sán độc nhất trong số các loại sán. Chúng là loài lưỡng tính với sự lưỡng hình giới tính rõ rệt giữa con đực và con cái. Trong sinh sản, hàng ngàn trứng được phóng thích vào bàng quang hoặc ruột. Trứng được bài tiết vào vùng nước ngọt theo nước tiểu hoặc phân.
Trứng nở thành ấu trùng, bây giờ phải đi qua ốc ký chủ trung gian trước khi bước vào giai đoạn mà sự xâm nhập trực tiếp qua da sẽ lây nhiễm sang vật chủ động vật có vú thứ hai, bao gồm cả vật chủ là người. Schistosoma cũng có thể xâm nhập vào cơ thể qua da.
Schistomes có cấu trúc khác nhau ở một số chi tiết nhất định, theo đó có thể phân biệt được: sán đực, sán cái. Schistosoma trứng không có nắp, và một số loại schistosomes có thể được phân biệt dựa trên hình dạng của trứng. Không giống như một số ấu trùng có đuôi khác, đánh sâu đỏ bằng chiếc đuôi chẻ đôi.
Có nhiều loại sán máng, nhưng có khoảng 4 loại ký sinh ở người:
- s.japonicum phân bố chủ yếu ở Đông Á: Trung Quốc, Nhật Bản, Hàn Quốc, Đài Loan, Philippines …
- s.haematobium phân bố ở Châu Phi: ai access, senegan và các Trung Đông như Ấn Độ, Israel.
- s.mansoni phân bố ở khu vực sông Neil của Châu Phi, Ai Cập, Congo, Châu Mỹ Latinh
- s.interc alatum phân bố ở Ai Cập , Congo, Gabon ……
Ấu trùng sán vào ốc, ký sinh trên cơ thể ốc và phát triển từ ấu trùng có lông thành ấu trùng có đuôi. Tốc độ sinh sản của ấu trùng phụ thuộc vào điều kiện môi trường. Trong điều kiện lý tưởng, vật chủ của ốc sên thải ra hàng nghìn ấu trùng mỗi ngày, một chu kỳ kéo dài vài tuần. Từ một ấu trùng giun nhiều tơ thông thường sẽ phát triển thành hàng trăm nghìn ấu trùng có đuôi.
Ấu trùng đuôi di chuyển tự do trong nước và khi con người bơi trong nước, ấu trùng đuôi sẽ tìm cách xâm nhập vào da của chúng ta, để lại đuôi của chúng. Chỉ cần nhúng chân vào nước có ấu trùng, chỉ trong vòng chưa đầy một phút, ấu trùng có thể chui qua da. Sau khi ấu trùng sán máng xâm nhập vào cơ thể chúng ta, chúng sẽ đến hệ tuần hoàn theo đường máu của toàn bộ cơ thể, và phát triển thành sán trưởng thành ở tĩnh mạch cửa. Trứng được đẻ ra sau khi thụ tinh và có vòng đời khoảng 20 năm.
Triệu chứng nhiễm sán lá máu
Ấu trùng Schistosome có thể gây ra các triệu chứng ở các bộ phận khác nhau của cơ thể sau khi xâm nhập vào cơ thể:
Trong da: Đây là nơi khởi phát sớm nhất, ấu trùng xâm nhập qua da và xâm nhập vào cơ thể. Một triệu chứng phổ biến là ngứa nhiều và sau một vài ngày, phát ban có thể xuất hiện thành từng đám và có thể kèm theo sốt, mệt mỏi và khó chịu.
Nhiễm trùng: Xảy ra khoảng 1 đến 2 tháng sau khi phản ứng da xuất hiện. Bệnh có thể biểu hiện bằng các phản ứng dị ứng, tổn thương da giống mày đay và có thể kèm theo sốt, gan lách to, ngứa da, đau cơ …
Giai đoạn trưởng thành: Tùy theo loại mầm bệnh và vị trí tổn thương mà sẽ có những biểu hiện bệnh khác nhau. Schistosoma japonicum có thể gây gan lách to, biểu hiện là sốt, ớn lạnh, vã mồ hôi, rối loạn tiêu hóa kèm theo gan lách to, tăng áp lực tĩnh mạch cửa mãn tính, tuần hoàn bàng hệ … Các triệu chứng tổn thương phát hiện ở bàng quang và cơ quan sinh sản như ứ trệ tuần hoàn, u nhú vảy niêm mạc bàng quang. ..
s.mansoni gây ra bệnh sán máng đường ruột. Các triệu chứng lâm sàng của nhiễm bệnh sán máng này không rõ ràng, nhưng xảy ra phân lỏng, táo bón xen kẽ, phát ban ngứa trên da và gan lách to. s.intercalatum cũng là một loại sán lá ruột với các triệu chứng rất giống với s.intercalatum. Mansoni.
Biện pháp điều trị nhiễm sán lá máu
Hiện nay, một số loại thuốc thường được sử dụng để điều trị các bệnh do bệnh sán máng gây ra, chẳng hạn như ninidazole, oxaniquine và praziquantel. Ninidazole là một loại có độc tính cao với các tác dụng phụ có thể gây ra các biến chứng về sức khỏe tâm thần. Oxaminquine ít độc hơn và có thể điều trị rộng rãi, nhưng chỉ có hiệu quả đối với s. Mansoni. Một loại thuốc khác là praziquantel có tác dụng rất tốt trong điều trị bệnh sán máng nên thường được sử dụng nhiều hơn.
Sự lưu hành gây bệnh của bệnh sán máng đòi hỏi một số lượng lớn vật chủ. Như vậy, tình trạng kinh tế xã hội và điều kiện môi trường ảnh hưởng đến khả năng lây lan và lây lan của dịch bệnh. Các đối tượng nguy cơ cao cần đề phòng lây nhiễm bệnh sán máng là làm ruộng, trồng lúa nước, đánh bắt, câu cá, …
Cảm ơn bạn đã tìm đọc bài viết “Sán lá máu và những thông tin quan trọng bạn cần biết”. Hy vọng qua bài viết này bạn đọc đã có những thông tin thú vị và cần thiết về ký sinh trùng sán máu.
Bài viết được trích dẫn từ các bác sĩ và các nguồn đáng tin cậy trong và ngoài nước. Tuy nhiên, đội ngũ docosan khuyến khích bệnh nhân nên tìm hiểu và đặt lịch hẹn với bác sĩ có chuyên môn để điều trị. Để được tư vấn trực tiếp, liên hệ hotline 1900 638 082 hoặc chat để được hướng dẫn đặt lịch khám.
Tham khảo: cdc
Có thể bạn quan tâm