Bài văn phân tích cuộc sống của hai đứa trẻ – thach lam ở thành phố và vùng
thach lam là một nhà văn Việt Nam nổi tiếng và Tự lực văn đoàn, sinh ra trong một gia đình viên chức ở Hà Nội. Sinh ra ở nông thôn, thach lam phải vật lộn với miếng cơm manh áo và sớm mắc phải căn bệnh lao nan y. Ông mất năm 1942 ở tuổi 32, vẫn đang trong những ngày tháng vinh quang của sự nghiệp cầm bút. Là một thành viên của Tự lực văn đoàn, nhưng khác với nhất linh, hoàng đạo, khai hung… ngòi bút của thach lam thường gần gũi hơn với cuộc sống của những người dân nghèo bình thường. Viết rất nhẹ nhưng càng viết càng đau và càng thấm. Mặc dù anh viết về nhiều chủ đề nhưng chủ yếu vẫn là phụ nữ và trẻ em. Trong văn học của ông, trẻ thơ có nhiều khuôn mặt, nhiều hoàn cảnh, nhiều cách ứng xử khác nhau nhưng chúng luôn đáng yêu, dễ mến, với bao cảm xúc hồn nhiên. Truyện ngắn “Hai đứa trẻ” in trong tuyển tập “Nắng trong vườn” năm 1938 là một truyện ngắn đặc sắc tiêu biểu cho phong cách hoa thạch thảo.
Khi đọc về hai đứa trẻ này, chúng ta thấy rằng câu chuyện được kể là một cuộc sống tồi tàn, ảm đạm ở một vùng nghèo. Màn đêm buông xuống, những người dân nơi đây cũng chìm trong màn đêm u uất. Hình ảnh chợ tàn ngụ ý “chợ đã họp giữa phố lâu rồi, người đi rồi ồn ào, trên mặt đất chỉ còn rác rưởi, vỏ bưởi, vỏ chợ, quả nhãn. lá và lá mía. Một mùi hương. Ướt. Giọng nói vang lên, tiết trời oi bức xen lẫn mùi bụi quen thuộc, gợi cho người phụ nữ cái mùi riêng của mảnh đất quê hương này. Cách miêu tả chi tiết và chụp cận cảnh, thế là từ cát, đá đến vỏ bưởi, vỏ rau, lá nhãn, lá mía … ddefu hiện lên, đánh thức những cảm xúc thầm lặng, từ đó chuyển hóa khứu giác, gợi nhớ đến “mùi bụi”, “cái mùi đất “,” mùi quê hương “., một dấu hiệu cho thấy cuộc sống không giàu có.
Vào lúc chạng vạng, bóng tối bắt đầu xuất hiện. “Mấy gánh hàng rong về muộn, cột đèn đã sáng rồi mà còn đứng nói mấy câu nữa. Mấy đứa tội nghiệp ngồi xổm dưới đất, bươn chải tìm chút mưu sinh cho mình”. Cuộc sống của hai chị em cũng chẳng khá hơn là bao. hơn của cộng đồng Người nghèo sống tốt ở đây. Gia đình sa sút, cha mất việc, gia đình rời Hà Nội về quê, mẹ mở cửa hàng bán sáo. Hai chị em được mẹ giao trông trẻ cho một cửa hàng tạp hóa nhỏ. Hàng hóa bán ra không thể thu lợi nhuận chỉ để đáp ứng nhu cầu ít ỏi của người dân trong vùng. Đó chỉ là những thứ cần thiết của cuộc sống: vài cái tẩu, vài cục xà bông, ly rượu… Cuộc sống của một gia đình chẳng khá gì hơn cuộc sống tồi tàn của mấy mẹ con mấy mẹ con. Nhịp sống mệt mỏi, đơn điệu và chán nản. Đáng lẽ ra, trẻ em phải có một cuộc sống vô tư, nhưng ở đây chúng phải gồng mình với gánh nặng cơm áo gạo tiền, như những con dơi bay ra khỏi tổ mỗi đêm.
Nhà ga nhỏ đó là cuộc đời của một ông già điên. Bà già qua lời kể của một bà già nghiện rượu – khách quen của hai chị em. Tuy nhiên, mỗi lần điên cuồng mua rượu, trong lòng tôi vẫn có cảm giác sợ hãi. Có lẽ nhân vật đã để lại ấn tượng khó phai trong tâm trí người đọc qua tiếng cười khanh khách và tiếng bước chân vào bóng tối. Tiếng cười vô hồn và những giọng nói không phù hợp vang lên trong cộng đồng yên tĩnh, và thị trấn u sầu nghe thật đáng sợ. Bước chân của người đàn bà tội nghiệp trong bóng tối cũng đủ gợi lên một số phận bi thảm, một cuộc đời tăm tối không lối thoát. Chỉ sử dụng những bức tranh vẽ bậy bạ để cho người đọc thấy một bức tranh nghèo nàn về một cuộc sống buồn tẻ, mệt mỏi và không có tương lai tươi sáng.
Số phận của những người nghèo trong bóng tối đang dần hiện ra trước mắt họ. Ban ngày chị đi mò cua bắt ốc, ban đêm chị chuẩn bị nước chè tươi, thắp ngọn đèn dầu leo lét. Đó là một gian hàng tạm bợ, khiêm tốn dưới gốc cây sồi, gần những đường gờ bằng gạch. Bạn có thể có tất cả các cửa hàng của mình trong đầu, trong tay, tất cả của bạn. Khách hàng của cô là một số quân nhân, họ hàng của giáo viên, nông dân trồng lúa, đánh xe ngựa, v.v., những người lao động nghèo khổ như mẹ con mình. Và dù không kiếm được bao nhiêu nhưng cô ấy dọn hàng mỗi ngày từ chập choạng tối cho đến tận khuya. Ngoài ra còn có gánh phở của chú siêu. Cuộc vui sừng sỏ đó thơm lắm nhưng tiếc là đắt quá, ở cái thị trấn nhỏ bé này mà ngay cả An và An cũng không dám nghĩ tới lại có nhiều tiền. Trong đêm tối ấy, có một gia đình “ngồi trên chiếc chiếu rách nát, nồi sắt trước mặt, tiếng đàn lè nhè”, người con trai trèo xuống đất nhặt rác bẩn, chậm rãi hát: “Anh không. hát bởi vì bạn không nghe thấy nó. giọng nói của khách hàng “. Cô ấy đã dọn dẹp hàng hóa từ lúc chập choạng tối, và bây giờ cô ấy đang vẫy một cành chuối khô để đuổi ruồi khỏi thức ăn, chỉ chờ nhà có thừa. Đó là những cảnh đáng thương, thảm hại. thach lam là một người nhẹ nhàng và tinh tế. Ông từng khẳng định: “Thiên chức của một nhà văn, cũng như bất kỳ một chức quan quyền quý nào khác, là ở đời có thêm lẽ phải và tình yêu”. Ở hai đứa trẻ này, người đọc không chỉ thấy được cuộc sống u ám, mờ mịt mà còn ẩn chứa những vẻ đẹp, tình người không thể phai mờ. Bằng ánh mắt chân thành và sự đồng cảm sâu sắc với những mảnh đời bị lãng quên, thach lam khéo léo khám phá vẻ đẹp tỏa sáng đằng sau những mảnh đời éo le, éo le. Tuy không trực tiếp thể hiện nhưng những gì được thể hiện qua chất văn trong những trang văn là những phẩm chất tốt đẹp của những người dân phố huyện nghèo. Đây là đức tính cần cù, chịu thương chịu khó – đức tính muôn thuở của người Việt Nam ta.
Sống trong sự đơn điệu và tẻ nhạt lặp đi lặp lại, họ vẫn trăn trở và mong chờ “biết bao người trong bóng tối mong ánh sáng cho cuộc sống nghèo khổ ngày nào” như ngày sau. Giấc mơ càng mờ, tình cảm của họ càng đáng thương, vì họ không biết số phận của mình sẽ ra sao. Nhìn cuộc sống xung quanh mình, Deadlock không khỏi cảm thấy nhàm chán. Vượt qua cái nghèo và cái khó về vật chất của những thị trấn nghèo khó trước cách mạng, Salin cũng khám phá ra tình yêu thương mà mọi người dành cho nhau. Đó là sự cảm thông và thương xót của công đoàn đối với những người cùng cảnh ngộ. Cái nghèo không thể tước đi tình cảm nhân văn và tấm lòng lương thiện vốn có của người nghèo. Càng nghèo càng yêu nhau, cùng trải nghiệm vẻ đẹp của cuộc sống, hướng tới tương lai tươi sáng, hy vọng đổi đời. Mong manh và mơ hồ, bluestone vẫn cho thấy rằng người dân ở đây không muốn cuộc sống của họ trở nên vô nghĩa bởi sự lang thang và buồn chán.
Qua đó, chúng ta có thể thấy rằng cả cảnh vật và con người đều gợi lên sự nghèo khó. Con người như những chiếc bóng dưới ánh đèn buổi chiều, dần dần bị bóng tối bao trùm. Những câu thoại của họ không thể làm sống động bầu không khí của cộng đồng mà chỉ có thể khắc sâu vào nhịp sống buồn tẻ và buồn tẻ. Việc phát hiện ra hoa nhài không phải là mới, nhưng cần không để mất những điều tốt đẹp trong bóng tối tăm tối của thời điểm hiện tại. Đó là những giá trị nhân văn cao cả mà thach lam viết ra để người đọc không mất niềm tin vào những người nghèo thực sự.