Phân tích khung cảnh phố huyện trong Hai đứa trẻ (Thạch Lam) | Văn mẫu 11

Phân tích bức tranh phố nghèo trong truyện ngắn “Hai đứa trẻ” Nêu niềm xúc động và niềm thương cảm sâu sắc của tác giả đối với kiếp người nghèo khổ, cơ cực của con người. trước cách mạng.

Đề bài: Phân tích cảnh nghèo trong truyện ngắn Hai đứa trẻ.

Phân tích tóm tắt các kịch bản ở các vùng nghèo

Tôi. Giới thiệu: Giới thiệu một câu chuyện ngắn và bức tranh về hai đứa trẻ ở một thị trấn nhỏ

  • Ví dụ: thach lam là một nhà văn viết truyện ngắn xuất sắc với tác phẩm đi sâu vào những hình ảnh bình dị đời thường, những bức tranh từ thực tế cuộc sống. Chính vì những yếu tố đó mà các tác phẩm của anh luôn được nhiều người yêu thích và đam mê. Một trong những tác phẩm tiêu biểu của ông là truyện ngắn Hai đứa trẻ . Các tác phẩm thể hiện cuộc sống ở những vùng đất nghèo khó và những mong ước nhỏ nhoi của người dân nơi đây.
  • Hai. Thân bài : Phân tích cảnh phố thị trong truyện ngắn “Hai đứa trẻ”

    1. Thị trấn huyện lúc hoàng hôn:

    • Bức tranh làng quê Việt Nam quen thuộc
    • Con ếch kêu
    • Tiếng muỗi vo ve
    • Trống rỗng
    • Hoàng hôn mang một cảm xúc Việt Nam
    • 2. Thị trấn quận lúc nửa đêm

      • Bóng tối bao trùm khối và khiến nó ngập trong bóng tối
      • Bóng tối như một nỗi ám ảnh đối với người dân nơi đây
      • Hoạt động của con người chỉ phụ thuộc vào ánh đèn nhấp nháy
      • Cuộc sống bế tắc
      • Hy vọng rằng dưới ánh đèn tàu
      • Ba. Phát biểu kết thúc: Hãy cho tôi biết cảm nhận của bạn về cảnh thị trấn trong truyện ngắn của hai đứa trẻ

        • Ví dụ: Câu chuyện ngắn về hai đứa trẻ kể về nỗi vất vả của những người dân ở một vùng quê nghèo. Một hình ảnh nổi bật trong những năm tháng khó khăn gian khổ. Đồng thời ta cũng thấy được niềm tin và tình yêu quê hương đất nước của tác giả được thể hiện trong truyện ngắn của mình.
        • Có thể bạn quan tâm: Bài viết phân tích cảnh phố phường về đêm

          Kêu gọi giấy tờ hoặc phân tích về chế độ xem phố tồi tệ của đứa con thứ hai

          Điều 1

          Thị trấn vùng tối, một khu chợ chết, một góc chợ đơn sơ

          thach lam (1910-1942) là nhà văn viết truyện ngắn văn xuôi xuất sắc của Việt Nam nửa đầu thế kỉ XX. Trong văn học Salin, hai yếu tố hiện thực và chủ nghĩa lãng mạn được kết hợp hài hòa, tự nhiên nên văn học Salin vừa nhẹ nhàng vừa có phong vị sâu sắc. Truyện ngắn “Hai đứa trẻ ” in trong tập “Nắng trong vườn” (1938) là một truyện ngắn đặc sắc theo thể văn thạch nhũ. Qua con mắt của hai đứa trẻ, tác giả tái hiện bức tranh thiên nhiên và bức tranh đời sống nông thôn Việt Nam trước Cách mạng tháng Tám. Qua hai bức tranh này, tác giả gợi lên nhiều ý nghĩa xã hội sâu sắc.

          thach lam đã chọn tiếng trống thu thay cho tiếng trống buổi chiều để diễn tả “khoảnh khắc ngày tận thế” của những kẻ sĩ, những kẻ có vẻ buồn hơn khi chiều về tối.

          Mặt trời ló dạng sau rặng tre, những đám mây đủ màu bao phủ, Rừng trúc đầu làng đen kịt, bầu trời đêm phố huyện lấp lánh những vì sao, và những con đom đóm lập lòe trong bóng tối dày đặc. Cuối chợ, tiếng ồn ào biến mất, chỉ còn rác chợ chất đống vỏ bưởi, lá nhãn, tiếng ồn ào nhường chỗ cho sự hiu quạnh của khu chợ chết chóc. Thông thường, khi muốn hiểu về kinh tế văn hóa của một làng quê, người ta nhìn vào thị trường. Ở đây, măng đá cũng được mô tả theo khái niệm này. Đầu tiên, ông mang đến cho người đọc hình ảnh một khu chợ chết. Điều này làm tôi nhớ đến một vùng quê rất nghèo và lam lũ.

          Âm thanh là tiếng trống mùa thu, tiếng ếch nhái ngoài đồng, tiếng muỗi vo ve, tiếng hoa bàng rơi nhẹ nhàng, gửi một tín hiệu u sầu rằng cuộc sống không còn nhiều niềm vui. Cái mùi quen thuộc của bụi, mùi ẩm mốc, khói, cỏ và phân trâu chỉ có ở quê hương này, một mùi nghèo nàn và bế tắc.

          Tóm lại, thiên nhiên phố thị rất đỗi bình yên, nhưng chứa đầy nỗi buồn và tình cảm của người viết luôn say đắm trong cách thể hiện của tâm hồn xưa. Nhà văn dùng bút pháp mượn cảnh để tả tình, bút pháp tả người để tả đời. Chính vì lối viết này, tác giả đã gián tiếp dựng lên một hình ảnh khái quát về đời sống nông thôn Việt Nam trước Cách mạng tháng Tám.

          Trong tác phẩm này, ngòi bút của tác giả tập trung khắc họa những hình ảnh của những mảnh đời nghèo khổ, cơ cực, lam lũ, tăm tối và bấp bênh.

          Cảnh sinh hoạt của con người, trước hết, qua con mắt của chị em nhà văn hiện lên những đứa trẻ tội nghiệp ngồi xổm bên thềm chợ tàn. Sau khi tan chợ, những đứa trẻ tội nghiệp này xuống sàn chợ nhặt thức ăn thừa để cứu sống, nhưng vì chợ nghèo, chợ chẳng còn gì thừa nên chúng đã nhặt được vài thanh tre. Trên nền chợ chỉ còn lại vài thanh tre. Và sau đó chúng ta thấy rằng cuộc sống của những đứa trẻ này không mang lại bất kỳ hy vọng tốt đẹp nào. Khi miêu tả hoàn cảnh sống của người lao động, tác giả đã quan sát và miêu tả rất nhiều về mối quan hệ mẹ con. Cô gái nhỏ là một người nông dân suốt ngày chỉ biết “mò cua bắt tép”, mặc quần áo gánh nước đi bán nước nhưng cô chuẩn bị và bán hàng mỗi đêm, nuôi hy vọng vào đó. Cảnh mưu sinh nơi phố phường đêm nào cũng vậy, vợ chồng người chú tội nghiệp ngồi trên chiếc đệm rách, chờ sẵn với chậu nước trắng trước mặt. Bà cụ luôn về nhà trong bóng tối. Còn hơn những chị em có cửa hàng tạp hóa nhưng không bán được hàng ngày và bao kiếp người tan nát trên chiếc võng gãy.

          Tất cả các kịch bản này đều có một điểm chung: nghèo cùng cực, nghèo cùng cực. Đây là một trận lụt đen tối không có dấu hiệu của tương lai. Nhưng chúng ta đã biết rằng con người là linh hồn của đất nước. Miêu tả cảnh nghèo khổ, vất vả của người dân, tác giả đã miêu tả cái nghèo của người dân quê trước Cách mạng tháng Tám thật đáng thương, thật đáng ghi nhận, thật xót xa.

          Tác giả vẽ nên bức tranh cuộc sống u tối, bần hàn trong cái nền tăm tối của đất trời. Trong khi thiên nhiên luôn tươi đẹp và “đêm hè êm như nhung, gió mát” thì những đêm ấy vẫn bao trùm cuộc đời lam lũ. Để miêu tả bóng tối này, tác giả sử dụng những chi tiết rất gợi, khi đường làng, đường ra sông tối mịt mù mịt, có lúc tối mịt mù mịt. màu đen. Với những chi tiết này, tác giả gieo rắc bóng tối trong bóng tối, bao trùm lên những con phố của những vùng nghèo khó, đôi khi sử dụng hình ảnh “hạt ánh sáng” của tiệm tạp hóa của bà để nhấn mạnh sự nhỏ bé và rùng rợn. Cô liên tục phát ra “ánh sáng” khắp “khe” của quán, “ánh lửa vàng” của chú lửa, và đôi khi là “ánh sáng quần nhỏ” của đèn của chị gái. Đặc biệt để nhấn mạnh cảnh hoàng hôn mờ ảo, tác giả miêu tả ngọn đèn của cô ấy như chiếu sáng một khu vực nhỏ bảy lần. Đây là hình ảnh ám ảnh về sự tầm thường và cô đơn của ánh sáng trong đêm vô hạn mong manh, miêu tả bóng tối bao trùm, ánh sáng nhỏ le lói trong bóng tối, tác giả muốn diễn tả một bức tranh đen tối của cuộc đời.

          Những cảnh đời của con người trong “Hai đứa trẻ” không chỉ nghèo khổ, tăm tối mà còn buồn tẻ. Hàng ngày, khi chợ tan, những đứa trẻ nghèo lại đi chợ tìm và nhặt những thứ còn sót lại của chợ. Ngày nào cũng vậy, cô em gái nhỏ, cô chú siêu quậy, cô chú tội nghiệp, mấy chị em tôi vẫn đang dọn dẹp và chờ đợi, khách hàng của họ là gia đình ông già, ông đang lục tung tổ tôm Người đến khắc tận cùng. . Những người lái xe sau đó dừng lại để uống nước, và nhịp sống vẫn tiếp tục ngày này qua ngày khác. Từ người bán hàng đến khách hàng đều là những ông chủ lớn nhưng vẫn chưa sát đất. Cảnh tượng đó đúng như lời nhà thơ Huyemis đã viết: “Lúc nào cũng chung một tư thế, đi tới đi lui cũng chung một khuôn mặt”.

          Trong cảnh đời ấy, nhà văn Linta miêu tả cảnh hai chị em không ngừng chờ tàu. Đó là sự thức tỉnh ý thức cá nhân của những con người này, muốn vươn tay chạm vào ánh sáng, nhưng ánh sáng của sự sống trước mặt, giống như ánh sáng của một đoàn tàu nhấp nháy rồi chìm vào bóng tối. Trong bức tranh cuối tác phẩm, ngọn đèn của cô bé đang le lói trong giấc ngủ, tác giả cũng dùng điều này để khẳng định rằng cuộc sống trên những con phố và dãy phố vẫn đang leo lên cuộc sống, và mọi thứ đều chìm trong bóng tối. tối.

          Qua câu chuyện về hai đứa trẻ nghèo ngồi xem đồng vào buổi chiều và tối, tác giả lặng lẽ thể hiện không gian sống của một làng quê nghèo trước Cách mạng tháng Tám. Từ không gian sống này, tác giả gợi cho người đọc cảm giác nghèo khổ, tuyệt vọng của những người dân làng chài nơi “tấc đất tấc vàng”. Qua cảnh đời này, nhà văn Sarin đã gián tiếp lên án sự vô trách nhiệm của giai cấp thống trị đối với dân làng bấy giờ, đồng thời nhà văn cũng thể hiện tình cảm nhân văn sâu sắc.

          Tham khảo thêm: Phân tích hình ảnh một thị trấn trong múi giờ hoàng hôn của hai đứa trẻ

          Điều 2

          Bài văn hay nhất phân tích cảnh cộng đồng của hai đứa trẻ ngoan nhất

          thach lam được sinh ra trong một truyền thống văn học. Anh em cua anh nhat linh, hoang dao, khai hung, thach lam đều là thành viên của văn đoàn tự lực. Nhóm tự lực văn học “Nghệ thuật vì lợi ích của nghệ thuật”. Các tác phẩm của nhóm này đều được vẽ bằng màu hồng, bôi bẩn cuộc sống và thoát ly cuộc sống hiện thực, như: Song Sơn Hai Mộ, Cánh bướm bất tử, Lời thề, Đậu phộng, Con đường sáng, Xuân đi một nửa. ..Mặc dù văn chương self-help có chân nhưng văn chương của Jeremy Lin không giống của họ, không vấy bẩn, không đen nhẻm, không trốn tránh cuộc đời. Đừng viết về cuộc sống của những chàng trai và cô gái trẻ phục vụ cho giới thượng lưu thành thị. thach lam viết về cuộc sống nghèo khổ, vất vả, bấp bênh của tầng lớp tiểu tư sản nghèo và hạng thương gia lặt vặt. Ông không viết về học sinh và nhà văn nghèo, trường tư, vì đề tài đã được ngòi bút của Huấn Cao đào sâu.

          Vì lẽ đó, văn của thach lam rất gần với hiện thực phê phán của con người, hướng ngòi bút theo phong cách “nghệ thuật vì con người”. Trong “Ngọn gió lạnh đầu mùa”, anh viết: “Đối với tôi, văn học không phải là con đường để người đọc trốn tránh hay lãng quên, trái lại, văn học là một vũ khí cao siêu, siêu phàm để lên án và thay đổi một con người. đầy dối trá và độc ác Thế gian, trong khi làm cho lòng người trong sáng và giàu đẹp hơn. ”Không chỉ Carrie Lam mà Hồ Chí Minh cũng dùng ngòi bút của mình làm vũ khí. Câu chuyện về thach lam giống như một bài thơ trữ tình viết bằng văn xuôi. Nó tạo cảm giác êm đềm, nhẹ nhàng và tươi mát. Câu chuyện bắt đầu vào buổi chiều và kết thúc vào buổi tối, khiến không gian câu chuyện trở nên huyền bí, như một người bạn đã từng viết:

          “Ở đời con người, gạo đổ đi

          Biết thế giới đang đi về đâu “.

          Đã hơn một lần chúng ta bắt gặp những cảnh đen tối trong văn học tiền cách mạng. Ở phần cuối của tiểu thuyết trước Tắt đèn , chị Gà cũng lao vào bóng tối để giữ lấy sự trong trắng của mình, và bây giờ, giữa hai đứa trẻ, thach lam mượn bóng tối. Mô tả sự nghèo nàn của các nước nghèo, vùng đất của người chết. Khác với Tắt đèn, Hai đứa trẻ không có kịch tính, không có mâu thuẫn, có tình tiết nhưng không có tình tiết, câu chuyện cứ thế diễn ra theo dòng cảm xúc. Dù vậy, câu chuyện vẫn rất nhân văn, nhân bản.

          Two Children là một câu chuyện tự thuật về thời thơ ấu của thach lam. Lian là cô em gái dũng cảm của tác giả, và trong bóng tối của Ann đã che giấu Shi Juvenile. Trước đây, gia đình sống ở TP. Sau khi cô giáo mất việc, hai chị em phải về quê sinh sống, được mẹ là chủ quán giao cho một cửa hàng nhỏ cạnh ga tàu. Có lẽ, ga tàu cạnh quán của chị tôi là kỷ niệm về bữa tiệc của tác giả. Cái xóm nghèo lắm của bà bán hàng được tác giả ví như nơi chết chóc của xã hội suy vi Việt Nam trước Cách mạng tháng Tám. Chỉ trong chốc lát, măng đá đã liên tiếp đâm ra không biết bao nhiêu lần, nhưng phía trước và phía sau đều giống nhau. Trước và sau đó, tương lai của khu vực nghèo khó này vẫn không chắc chắn.

          Không phải ngẫu nhiên mà tác giả nhắc đến đèn dầu bảy lần trong tác phẩm, đó dường như là dụng ý nghệ thuật của tác phẩm, là điểm nhấn của tác phẩm. Khu ổ chuột, hay nói rộng ra là toàn bộ xã hội đương đại, mong manh và đang bị đe dọa như ngọn đèn của chị gái. Có một phép thuật rất độc đáo trong câu chuyện về thach lam. Hai đứa trẻ kết tinh toàn bộ lợi ích của thạch anh tím. Nó được coi là một kiệt tác của thach lam và một kiệt tác của văn học Việt Nam 1932-1945. Thông qua bức ảnh phố huyện nghèo, tác giả muốn gửi gắm thông điệp đến người viết: hãy dùng ngòi bút và mạng sống của mình để cứu những con người nhỏ bé ấy, hoặc thay đổi cuộc sống giả dối này như cuốn tiểu thuyết đầu tay Gió lạnh đầu tay.

          thach lam đưa người đọc đến một ngôi làng lâu đời. Không gian phố huyện như một cõi chết, một ao đời bình yên. Tiếng trống thu không vang lên từ đài quan sát đã phá vỡ bầu không khí im lặng. Tiếng trống bản lề khép lại thế giới đang hấp hối của sự sống, khép lại những khuôn mặt u ám của hai mẹ con, và mở ra một thế giới mới, một thế giới của hy vọng, chờ đợi “bóng tối từ bên trong.” Ánh sáng và bóng tối tranh nhau từng tấc đất: “Phía tây đỏ như lửa, bột trong mây như than khô”. Không gian cằn cỗi, mục nát, những mảnh đời bị lãng quên khiến câu chuyện càng buồn hơn vào những giờ chiều tối.

          “Không có gì buồn hơn một buổi chiều yên ả

          Ánh sáng trong bóng tối

          Cơn gió nhẹ kéo tôi qua đám cỏ rối

          Một vài mảng sầu đen ẩn hiện trên cành.

          (Mối quan hệ buổi chiều – Sự kỳ diệu của mùa xuân)

          Không gian buổi chiều thật buồn Khi chợ tan “Tiếng làng xa vắng chiều xa”. Cảnh bây giờ đóng vai trò là nền nơi các nhân vật xuất hiện. Nếu như ở trang giang, huy hoàng như tìm kiếm bóng dáng người thì ở chợ Tết ở doan van cu, chúng ta chỉ thấy một bóng dáng gợi hình:

          “Dân làng trở lại đông đúc

          Mặt trời chiếu trên cỏ

          Lá chuối rơi trên một quầy hàng trong chợ “.

          Trong hai đứa trẻ, cảnh cuối phiên chợ là hợp lý và sinh động nhất. Những chiếc lều dột nát, trơ trọi, những người cuối cùng bỏ đi từng đám, những đứa trẻ tội nghiệp cúi xuống nhặt rác do những người bán hàng rong để lại. Họ nhặt được gì, nhặt được gì khi thứ rác kia chỉ là những thanh tre, nứa, lá nhãn, vỏ cây chợ … Thấy buồn, thương họ vô cùng, muốn cho tiền nhưng bạn có tiền cho. những gì bạn làm, Vì vậy, sự cảm thông của cô ấy chỉ ở trên sự cảm thông. Tất cả những cảnh chợ búa này không được tác giả miêu tả trực tiếp mà được bộc lộ qua tâm hồn nhạy cảm của Lian. Viết về trẻ nhỏ cũng là sở trường của thach lam. Tác giả khiến những đứa trẻ tội nghiệp này dù còn nhỏ tuổi, biết suy nghĩ nhưng vẫn biết hy sinh, nương tựa vào nhau để tồn tại.

          Người xưa có câu “Một cận thị, hai non sông”. Nơi nào gần chợ ven sông là giàu có, sầm uất và nhộn nhịp nhất. Nhưng với vùng đất chết này, chúng ta có thể thấy sự nghèo nàn và tuyệt vọng ở đây mà không cần nhìn xa hơn. Ánh sáng đã nhường không gian cho bóng tối, biến phố huyện thành một cái ao của cuộc sống yên bình, một nơi chết chóc. Khung cảnh trong cộng đồng bây giờ phù hợp với câu nói của “Simei”, bóng tối trườn ra khỏi lòng cuộc sống, “Trời tối, đường sâu sang sông, qua chợ về nhà, ngõ trong làng lại tối mịt. “Muỗi bắt đầu vo ve”, “Rừng tre trước làng tối đen như mực, thấu cả bầu trời.” Đó là tất cả về cảm giác hợp nhất trong bóng tối. Phố huyện giờ chìm trong bóng tối. Để miêu tả sự ngự trị của bóng tối, tác giả sử dụng một cách khéo léo nghệ thuật tương phản. Lối vào bóng tối chỉ là một vài điểm nhấn: đèn yếu ớt, đèn sáng, bóng dài đung đưa, chập chờn như đom đóm, xanh biếc như bóng ma. Ánh sáng yếu chia hòn đảo thành hai nửa sáng và tối. Ánh sáng của chiếc đèn bàn không làm không gian sáng sủa hơn mà khiến bức tranh thực sự “tả tơi”, tăng thêm vẻ ảo diệu cho màn đêm.

          Để thoát khỏi màn đêm dày đặc đó, chỉ cần nhìn lên bầu trời và tìm kiếm các vì sao trong thiên hà khác. Nhưng như Xuanyan đã từng nói, bầu trời là “bầu trời thăm thẳm”, đối với hai đứa trẻ là bầu trời bao la và xa xăm. Những vì sao ấy thật xa, thật xa, như tia hy vọng cho nhân loại nơi cõi chết này. Đã quá xa rồi, cô phải trở về thực tại, cô về với ngọn đèn của chị mình. Chiếc đèn trong truyện tuy nhỏ nhưng được lặp đi lặp lại nhiều lần, ẩn chứa nhiều ẩn dụ nghệ thuật của tác giả. Cũng giống như thứ ánh sáng ấy, dù nhạt nhòa và le lói theo từng giọt, vẫn cố gắng soi sáng không gian xung quanh, người dân vùng đất nghèo khó này vẫn cần hy vọng, thậm chí là tuyệt vọng. Phố xá về đêm cũng là lúc khúc nhạc bất diệt của đồng quê vang lên. Tiếng ếch nhái ngoài đồng, tiếng côn trùng kêu, tiếng dế nhặt dế. Tất cả những điều này tạo ra một hệ thống âm thanh giống như trống và không giống như tiếng dẫn. Nhưng nó chưa đủ để vang xa, như bóng người sống trong cộng đồng. Ánh sáng và âm thanh yếu ớt và mong manh như sự sống nơi đây.

          Bức tranh của quận nghèo không chỉ tối đen như mực, ánh đèn mờ ảo, ánh sáng đỏ của nồi lẩu, và tiếng nhạc đồng quê bất tận, mà nó còn tỏa ra một mùi ẩm ướt, dường như là mùi của đất, quê hương. của. Bức tranh “tả tơi” đó chính là bối cảnh mà cuộc sống con người đang suy tàn xuất hiện. Hai chị em buộc phải ngồi êm ái trên chiếc chõng tre sắp gãy, còn hoa bàng rơi trên vai giữa chợ sầu thảm. Hai mẹ con bưng ra những mẻ bát, dọn đến quán từ sáng sớm, nơi có hy vọng cho sự sống của một người phụ nữ, nhưng sau đó không còn hy vọng. Ở cái vùng nghèo khó này, anh siêu phở đang gánh hàng xa xỉ ngã lăn ra đất vì hàng quá ế ẩm, anh lo nếu hôm nay không bán hết quà thì ngày mai gia đình anh có thể chết đói, nhưng anh không muốn. Bán. Nhưng chú siêu vẫn còn hy vọng được, còn cái gia đình xẩm nghèo kia, cả nhà chỉ còn lại chiếc chiếu rách, chiếc nồi đồng và cây đàn lèo tèo theo từng tiếng nặng nề thì niềm hy vọng của họ lại càng mỏng manh hơn. Sau đó bà lão bỏ thi giữa chừng, ngẩng đầu uống rượu cười nói.

          Có lẽ trước cảnh nghèo đói này, cảnh ngày chợ người ta chỉ mua vài bao diêm và nửa thỏi xà bông đã khiến cô thị như không muốn tỉnh lại. Anh phải mượn rượu để giải sầu và quên đi cái nghèo mà anh đeo bám gần hết cuộc đời. Ngồi trong phòng ăn, cô chỉ là một vài người lính, hút vài tẩu thuốc và mua diêm. Cảnh tan hoang, vật dụng đổ nát, cái thúng tre của chị tôi cũng hỏng, cái bát đựng nước của chị tôi cũng vỡ, cái chiếu rách nát của nhà bác Shamu, bà lão tranh giành với cuộc đời tàn tạ. Điều mà rất nhiều người bị hủy hoại đang chờ đợi trong bóng tối.

          “Đi bộ mãi giữa các tư thế

          Đi tới đi lui vẫn số mặt như cũ “

          (vòng quanh – gần Huey)

          Thậm chí, mẹ tôi còn bắt hai chị em tôi thức trắng đêm để chờ tàu đi bán hàng. Nhưng với Lian, ngày chợ, cô chỉ bán được vài bao diêm và nửa thỏi xà bông, dù cố thức chờ tàu cũng không bán được, vì ế. một mùa làm ăn thua lỗ, đi tàu rất ít người, Thường chỉ mua vài gói tẩu. Liên vẫn đang cố thức để chờ tàu vì một lý do khác. Xe lửa hoàn toàn trái ngược với cuộc sống thành phố. Chuyến tàu đến với ánh sáng của đèn pha đủ phá tan bóng tối của cộng đồng, khác hẳn với ánh đèn mờ ảo của Cô Chị. Nó mang theo tiếng rít của đoàn tàu khi đi vào đĩa hát, và tiếng rít của bánh xe trên đường sắt, không giống như nhạc đồng quê luôn thay đổi. Những người trên tàu, tất cả đều mặc quần áo sang trọng, hoàn toàn khác với bóng dáng ngái ngủ loạng choạng, chủ nhân của nơi chết chóc. Chuyến tàu còn mang theo cả ánh sáng của tuổi thơ tươi đẹp của Lian An. Ngay cả khi mẹ giàu có, nhà ở thành phố, cô vẫn được mẹ dẫn ra hồ uống nước xanh đỏ mát lạnh. Kí ức về Hà Nội xa xôi, Hà Nội phồn hoa rực rỡ. Chuyến tàu chở Inter và “đâu đó” cuộc sống thịnh vượng và phát triển. Cuộc sống của cộng đồng này là kiểu sống “vừa phải”, vừa bí mật, lạc hậu. Khi đau khổ ở hiện tại và nghi ngờ về tương lai, người ta thường nghĩ về quá khứ, đó là quy luật tất yếu … Không phải ngẫu nhiên mà Sarin để bà già điên kết thúc trong một sớm một chiều. The Old Lady là minh chứng rõ ràng nhất cho kiếp người bị lãng quên ở Vùng đất chết.

          Hôm nay họ có thể có nhiều vốn như bác He, nhưng ngày mai khi hết vốn, họ sẽ chỉ còn những nhà hàng nhỏ như cô ấy, hoặc thậm chí ít hơn như gia đình bác Xẩm, rồi một nửa sẽ biến mất. Bà cụ lại đi vào bóng tối, nhìn lên bầu trời hy vọng mong manh. Đã hơn một lần chúng ta bắt gặp những hình ảnh tối tăm. Sau khi tắt đèn của chàng Bắp, cuối cùng chị Ji cũng chìm vào bóng tối dày đặc, giờ cùng hai đứa con, bà lão cũng bất đắc dĩ bước vào bóng tối. Một đặc điểm khác mà chúng ta thường thấy ở truyện ngắn trước cách mạng là sự yêu thích của tác giả đối với nghệ thuật tương phản. Trong Chữ người tử tù, ánh sáng cũng đối lập với bóng tối, sự thanh cao trong tâm hồn con người đối lập với hoàn cảnh xung quanh, và bản hòa âm ánh sáng của đoàn tàu trong Hai đứa trẻ cũng khác với nhạc đồng quê. chết. Con tàu cũng là hoạt động cuối cùng mà hai chị em có thể bám trụ. Nó giống như một chiếc phao tinh thần trong đại dương tăm tối. Nhưng đối với Ann, dụi mắt trên tàu là trò chơi duy nhất trong ngày. Đối với chúng tôi, không ai không có một tuổi thơ tắm trong những món đồ chơi xanh đỏ.

          Nhưng đối với một đứa trẻ như Ann và Lian, cuộc sống của họ nhanh chóng gặp rắc rối, đồ chơi là một thứ xa xỉ. Mỗi lần thấy các cháu trong đồng chơi là muốn chơi nhưng không chơi được vì phải gánh hàng và giúp chị gái chăm chứ không phải mẹ. Vì vậy, trước khi đi ngủ, An còn nhắc mẹ dậy khi tàu đến. Chuyến tàu đến, yên lặng như thể có một món đồ chơi mới. Đằng sau những câu chữ nhẹ nhàng, người yêu văn học vẫn có thể cảm nhận được thông điệp Lin Tallin muốn gửi gắm: hãy cứu lấy những đứa trẻ, đừng để chúng cô đơn và bị bỏ rơi như hòa bình và kết nối. thach lam đưa ngòi bút vào phố huyện nghèo khẳng định dù khó khăn, nghèo khổ đến đâu thì trong lòng những người dân quê nghèo vẫn luôn mong một cuộc sống tốt đẹp như vậy. Cứ như vậy trên thuyền. Khi đoàn tàu đi qua, anh ngủ thiếp đi. Nếu không phải một cô gái chăm chỉ sớm hôm, với tâm hồn nhạy cảm không bao giờ có thể mơ tới, trong đầu cô chỉ hiện lên ánh sáng le lói của ngọn đèn nhỏ ấy.

          “Cuộc đời tôi là một chuyến tàu đêm

          Khách hàng ồn ào ở ga đi và ga đến

          Chuyến tàu sẽ đến sớm

          Cỗ xe trống rỗng và cô đơn “…

          Xem thêm: Bài phân tích hai truyện ngắn dành cho thiếu nhi của thach lam

          Điều 3

          Phân tích cảnh nghèo đói trong truyện ngắn “Hai đứa trẻ”

          Hai đứa trẻ của thach lam là một truyện ngắn “trữ tình buồn”. Có nỗi đau thực sự và vẻ đẹp tiềm ẩn trong tác phẩm, giống như hương thơm của một bông lan chiết xuất từ ​​nỗi buồn của cuộc sống. Đặc biệt, những bức tranh về thị trấn, làng quê nghèo khó được khắc họa trong tác phẩm đã thể hiện rõ nét phong cách, tài năng và tinh thần nhân văn mà tác giả muốn gửi gắm.

          thach lam có một giọng văn đa dạng, kết hợp giữa chủ nghĩa hiện thực sắc thái lãng mạn với lối viết gợi cảm. Nội dung của tản văn thể hiện một hiện thực rách rưới, u buồn nhưng đầy tình người, nhân hậu. Vì vậy, truyện ngắn của nhà văn hầu như không có cốt truyện. Truyện ngắn “Hai đứa trẻ” khắc họa bức tranh thiên nhiên ở một vùng quê nghèo, nơi cả thiên nhiên và con người đều nghèo nàn, đổ nát, đẹp đẽ, thơ mộng, đáng yêu và đáng quý biết bao.

          Bức tranh thiên nhiên của thị trấn bắt đầu bằng “tiếng trống thu rộn ràng trong các tòa nhà thành phố nhỏ, gọi chiều từng người một”. Tiếng trống gợi lên một thế giới rộng lớn, vừa đẹp đẽ vừa u buồn. Xen lẫn với những tiếng vọng rời rạc từ lớn đến nhỏ là “tiếng ếch nhái thổi gió nhỏ ngoài đồng”. Thiên nhiên toát lên những nét vẽ có hồn gợi lên một sự diệt vong mơ hồ khiến người ta phải thổn thức. Có buổi chiều nào “êm đềm như lời ru” trong mắt Nan Cao hay Wu Zhongfeng? thach lam vẽ nên một bức tranh thiên nhiên, những vùng đất nghèo khó nhuốm màu u buồn nhưng vẫn toát lên vẻ thơ mộng, trữ tình.

          Tuy nhiên, lớp áo thơ mộng ấy không thể che giấu được sự mục nát của cuộc đời những người đã khuất ở những vùng đất nghèo khó. Đời người thấp thoáng trong cảnh chợ hay trong bóng tối thật đáng thương. Khi “người đã về, người hối hả đã đi”, chỉ còn lại lác đác nhặt hàng, lác đác vài đứa trẻ lượm những bóng thức ăn thừa trong đống gạch vụn. Cái mùi ẩm ướt và cái mùi bụi quen thuộc quyện với cái bình dị đặc trưng của vùng đất phố huyện ấy lần lượt hiện lên trong ngòi bút đầy nghệ thuật của thach lam. Những người sống lâu, mệt mỏi và trì trệ mong đợi một điều gì đó mơ hồ xuất hiện từ bóng tối. Đó là những đứa trẻ nhặt rác, những người mẹ và những người chị, những chú phượng hoàng siêu quậy, những ông già khùng khùng… Quzhen tội nghiệp như một cái xác không hồn, còn “bao nhiêu người” thì như những cái bóng không yên trong đêm tối. Hai chị em được đặt cạnh một cái cũi nát, mấy cái ống, cái xà phòng; tài sản của hai mẹ con chỉ là cái thúng tre để đeo; quán ăn, nhà chú, nhà ông già, cái chiếu rách nát hay bà già khùng. .. đều chết ở phố huyện. là biểu hiện đầy đủ nhất của

          Trong các bức tranh của Ou Zhen, măng đá luôn tinh tế, sử dụng chiaroscuro để truyền tải thông điệp về cuộc sống. Bóng tối “trọn vẹn” của một đêm hè là “nhung lụa gió mát”. Bóng tối giống như một cái chảo đen khổng lồ bao trùm khắp các con phố của khu ổ chuột. “Cả đường ra sông đã tối, đường về nhà qua chợ, ngõ về làng càng tối.” Ánh sáng yếu ớt, thưa thớt dần bị bóng tối lấn át. Từ vũ trụ xa xôi “những vì sao lấp lánh”, “phương tây chói chang” đến ánh sáng của con người, là ánh sáng từ tre, ngọn đèn Mỹ leo lét, hay ánh sáng nhân tạo rực rỡ, sáng hơn cả ánh sáng của chuyến tàu đêm .thach lam khiến mọi người trong huyện mong chuyến tàu đêm bình minh, tôn vinh phẩm chất cơ bản của con người, khát vọng hạnh phúc. Chuyến tàu đã lấy đi tuổi thơ cơ cực của cô và khiến cô cảm thấy mình đang được sống một cuộc sống bình yên. Ngọn lửa xanh, ánh sáng xe ngựa, tiếng còi xe, tiếng bánh xe… đều diễn ra trong chốc lát rồi lại vụt tắt, nhưng ít nhiều cho thấy mọi người luôn cố gắng sống vui vẻ trong hoàn cảnh này. kinh khủng.

          Qua truyện ngắn “Hai đứa trẻ”, thach lam tái hiện bức tranh thiên nhiên phố thị nghèo nhưng tươi đẹp và hiện thực của những con người tuy đói khổ nhưng luôn chứa đựng tâm hồn lạc quan. Tác phẩm này gợi lên những cảm xúc nhỏ nhoi nhất trong lòng mỗi độc giả yêu mến Jeremy Lin.

          Trên đây là một số bài văn mẫu Truyện ngắn Hai đứa trẻ phân tích cảnh vùng nghèo hay nhất. Các em có thể tham khảo để bổ sung vốn từ vựng cũng như mở rộng nội dung khi viết bài. Chúc may mắn với các nghiên cứu của bạn!

Để lại một bình luận

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *