Cán bộ, công chức là gì? Đặc điểm của cán bộ, công chức?

Khái niệm về cán bộ, công chức

Hoạt động quản lý nhà nước xét đến cùng được thực hiện thông qua hành động của những cá nhân cụ thể, được nhà nước giao phó để thực hiện quyền lực nhà nước. Từ đó, ngạch cán bộ, công chức được hình thành, trở thành ngành học đặc biệt và quan trọng của luật hành chính.

Cán bộ, công chức là chủ thể lao động đặc biệt, họ thiết lập quan hệ lao động với nhà nước và thực hiện công vụ, nhiệm vụ được nhà nước giao phó. Trong mỗi giai đoạn lịch sử, pháp luật Việt Nam sử dụng một khái niệm khác nhau để chỉ đối tượng lao động này.

Sau khi nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa ra đời, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã ký Sắc lệnh số 76 / sl ngày 20 tháng 5 năm 1950 quy định về chế độ công vụ. Theo sắc lệnh, chỉ những công dân Việt Nam được chính quyền cách mạng tuyển dụng và bổ nhiệm vào các chức vụ chính thức trong các cơ quan nhà nước mới được coi là công chức. Do đó, phạm vi công chức theo Nghị định số 76 / sl ngày 20 tháng 5 năm 1950 rất hẹp.

Trong thời kỳ kinh tế kế hoạch hoá tập trung, các đơn vị kinh tế quốc doanh hoạt động hoàn toàn theo các định mức hoặc nghị định của nhà nước. Vì vậy, người lao động làm việc trong các đơn vị kinh tế quốc doanh cũng được coi là người thực hiện chức trách, nhiệm vụ của nhà nước. Nhà nước trả lương cho mọi người làm việc trong các cơ quan nhà nước, lực lượng vũ trang, tổ chức chính trị, tổ chức chính trị – xã hội, đơn vị kinh tế, doanh nghiệp nhà nước và thực hiện mọi chế độ đãi ngộ, có tư cách pháp nhân bình đẳng. Từ đó, trong các văn bản quy phạm pháp luật của nhà nước Việt Nam hình thành khái niệm chung về “công chức nhà nước”.

Với sự chuyển đổi nền kinh tế sang cơ chế thị trường xã hội chủ nghĩa, sự phân công lao động giữa các đối tượng lao động xã hội là rõ ràng. Vì vậy, nhà nước buộc phải có những quy định pháp luật phù hợp với đối tượng lao động, đồng thời xác định địa vị pháp lý, quyền và nghĩa vụ cụ thể của họ trong quá trình xây dựng thể chế và tổ chức. Để đạt được mục tiêu này, nhà nước đã ban hành các văn bản quy phạm pháp luật quan trọng như:

– Đạo luật Cán bộ và Công chức ngày 13 tháng 11 năm 2008; – Đạo luật Công chức ngày 15 tháng 11 năm 2010;

– Nghị định số 06/2010 / nĐ-cp ngày 25 tháng 01 năm 2010 của Chính phủ quy định về công chức;

– Nghị định số 18/2010 / nĐ-cp ngày 05 tháng 3 năm 2010 của Chính phủ về đào tạo và phát triển công chức;

– Nghị định số 21/2010 / nĐ-cp ngày 03 tháng 8 năm 2010 của Chính phủ về Quản lý tiền lương công chức;

– Nghị định số 24/2010 / nĐ-cp ngày 15 tháng 3 năm 2010 của Chính phủ quy định về tuyển dụng, sử dụng và quản lý công chức và Nghị định số 93/2010 / ngày 31 tháng 8 năm 2010 của Chính phủ Nghị định số 93/2010 / NĐ-CP sửa đổi một số quy định của Nghị định số 24/2010 / nĐ-cp ngày 15 tháng 3 năm 2010;

– Nghị định số 46/2010 / nĐ-cp ngày 27 tháng 4 năm 2010 của Chính phủ về thủ tục thôi việc và nghỉ hưu đối với công chức.

Theo quy định của pháp luật hiện hành, người làm việc trong cơ quan, tổ chức, doanh nghiệp theo chế độ hợp đồng lao động được gọi là người lao động (người làm công ăn lương); cơ quan, tổ chức, doanh nghiệp có sử dụng người lao động (gọi chung là người sử dụng lao động) có trách nhiệm trả lương cho họ. tiền lương và các quyền lợi khác, các luật và quy định điều chỉnh đối tượng này là luật lao động. di chuyển.

Dù cũng là công nhân viên chức nhưng những người được tuyển dụng, bổ nhiệm, bầu cử, bổ nhiệm làm việc trong các cơ quan nhà nước, tổ chức chính trị, tổ chức chính trị – xã hội được gọi là cán bộ. Công chức được tuyển dụng theo vị trí được gọi là công chức trong các trường học, bệnh viện và các cơ sở khác ngoài công lập.

Theo Luật Cán bộ, công chức 2008, các khái niệm về cán bộ, công chức được phân biệt như sau:

Cán bộ (12) là công dân Việt Nam được bầu, phê chuẩn, bổ nhiệm vào các chức vụ, chức danh (sau đây gọi chung là cấp tỉnh), huyện, … quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh (sau đây gọi chung là huyện) được trả theo lương và hưởng các mức lương trong ngân sách quốc gia.

Công chức (15) là công dân Việt Nam được tuyển dụng, bổ nhiệm vào các ngạch, chức vụ, chức danh trong các cơ quan Đảng Cộng sản Việt Nam, nhà nước và các tổ chức chính trị – xã hội ở Trung ương, cấp tỉnh và cấp khu vực của Việt Nam; đơn vị thuộc Quân đội nhân dân, đơn vị được quốc phòng công nhận; trong Công an nhân dân, đơn vị sĩ quan, hạ sĩ quan chuyên nghiệp và cơ quan lãnh đạo, quản lý đơn vị sự nghiệp công lập thuộc Công an nhân dân. Đảng, nhà nước và các tổ chức chính trị – xã hội, biên chế và tiền lương hưởng từ ngân sách nhà nước; tiền lương của công chức lãnh đạo, quản lý các cơ sở công lập và ngoài công lập do quỹ lương của các cơ sở công lập bảo đảm. Thep luật pháp.

cán bộ xã, phường, thị trấn là công dân Việt Nam, được bầu giữ các chức vụ có thời hạn trong thường trực hội đồng nhân dân, ủy ban nhân dân, bí thư, phó bí thư đảng ủy, người đứng đầu thường trực. Tổ chức chính trị – xã hội; công chức cấp xã là công dân Việt Nam được tuyển dụng vào các chức danh nghề nghiệp thuộc Ủy ban nhân dân cấp xã, thuộc biên chế, hưởng lương từ ngân sách nhà nước,

Luật Cán bộ, công chức cũng quy định về chức vụ, chức danh của cán bộ, công chức cấp thị trấn (Điều 61); nghĩa vụ và quyền của cán bộ, công chức cấp thị trấn (Điều 62); bầu cử và sử dụng của cán bộ, công chức cấp thị trấn, đào tạo, bồi dưỡng (Điều 63) và việc đánh giá, xếp loại, cho thôi việc, từ chức, miễn nhiệm, thôi việc, nghỉ hưu đối với cán bộ, công chức cấp thị trấn (Điều 64).

Một hạn chế cơ bản của Luật Cán bộ, công chức theo Luật Cán bộ, công chức là không xác định được ai là cán bộ, ai là công chức nên khó áp dụng 4). Để khắc phục tình trạng này, ngày 25/01/2010, Chính phủ đã ban hành Nghị định số 06/2010 / nĐ-cp quy định về công chức. Luật Viên chức số 58/2010 / Qh12 cũng đã được Kỳ họp thứ tám, Quốc hội khóa XII thông qua ngày 15 tháng 11 năm 2010.

Ở nước ta, đội ngũ cán bộ, công chức trong hệ thống chính trị rất đa dạng, bao gồm cán bộ, công chức được bầu theo nhiệm kỳ trong đảng, nhà nước và tổ chức chính trị, tổ chức chính trị xã hội, tổ chức chính trị – xã hội. Giữ các chức vụ, ngạch công chức trong các cơ quan lãnh đạo, quản lý của cơ quan nhà nước, tổ chức chính trị, tổ chức chính trị – xã hội, đơn vị sự nghiệp. Không chỉ tuân theo pháp luật mà còn phải tuân theo hiến pháp của mỗi tổ chức.

Giữa cán bộ, công chức có những điểm chung, ví dụ: là công dân Việt Nam, thuộc biên chế, hưởng lương từ ngân sách nhà nước; được hưởng các quyền và nghĩa vụ chung; đều đặt dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam .

Tuy nhiên, giữa cán bộ và công chức cũng có sự khác biệt: cán bộ là những người đã được bầu, phê chuẩn, bổ nhiệm giữ các chức vụ lãnh đạo trong các cơ quan lãnh đạo của Đảng, Nhà nước, Nhà nước và các tổ chức chính trị – xã hội ở tất cả các cấp. Cán bộ các cấp là những người đảm nhận những trọng trách quan trọng trong các cơ quan, tổ chức nên yêu cầu tất yếu là phải có năng lực tư duy, năng lực lãnh đạo, quản lý và trình độ chính trị toàn diện. là thành viên; công chức là người được tuyển dụng, bổ nhiệm vào các chức vụ lãnh đạo, quản lý, vào các ngạch, bậc để thực hiện công việc chuyên môn, nghiệp vụ; điều kiện tiên quyết là có trình độ chuyên môn, nghiệp vụ phù hợp với chức vụ, ngạch, bậc, vị trí việc làm.

Trở thành viên chức phải thông qua bầu cử, phê chuẩn hoặc bổ nhiệm; trong khi đối với công chức, về cơ bản, họ phải trải qua kỳ thi tuyển hoặc được xét tuyển và được bổ nhiệm với các tiêu chuẩn và điều kiện cụ thể khác nhau. Do đó, các hệ thống đào tạo, bồi dưỡng, điều kiện bổ nhiệm, chức vụ, ngạch, bậc, … của công chức có những yêu cầu khác nhau đối với cán bộ.

Công chức quy định tại Điều 32 Luật Cán bộ, công chức bao gồm:

a) Công chức của các cơ quan Đảng Cộng sản Việt Nam, tổ chức chính trị – xã hội;

b) Công chức của các cơ quan nhà nước;

c) Công chức lãnh đạo, quản lý các cơ sở công lập ngoài công lập;

d) Cán bộ, hạ sĩ quan không chuyên nghiệp trong cơ quan, đơn vị quân đội nhân dân;

Theo quy định tại Điều 61 Luật Cán bộ, công chức năm 2008, công chức cấp thị trấn có các chức danh sau đây:

a) Cảnh sát trưởng;

b) Chỉ huy quân sự;

c) Văn phòng – Thống kê;

d) Địa chính – Kiến trúc – Thành phố và Môi trường (đối với huyện, thị xã) hoặc Địa chính – Nông nghiệp – Kiến trúc và Môi trường (đối với xã);

d) Tài chính – Kế toán;

e) Tư pháp – Quyền công dân;

g) Văn hóa – Xã hội.

Đặc điểm của cán bộ, công chức

So với những người lao động khác, cán bộ, công chức có những đặc điểm cơ bản sau:

– Cán bộ, công chức phải là công dân Việt Nam để được thiết lập quan hệ lao động với nhà nước thông qua tuyển dụng, bổ nhiệm, bầu cử, bầu cử. Họ làm việc trong các cơ quan nhà nước, tổ chức chính trị, tổ chức chính trị – xã hội.

– Cán bộ, công chức luôn là những người thực hiện chức trách, nhiệm vụ nào đó của nhà nước. Họ có những nghĩa vụ nhất định đối với nhà nước nên họ cũng được trao những quyền hạn nhất định để thực hiện nghĩa vụ của mình. Cán bộ, công chức chỉ được hành động trong phạm vi quyền hạn được giao trong quá trình thực thi công vụ, nhiệm vụ.

– Việc thi hành công vụ, nhiệm vụ của cán bộ, công chức không phải là hoạt động trực tiếp tạo ra của cải vật chất mà là hoạt động thực hiện chung các chức năng quản lý nhà nước.

– Cán bộ, công chức là những người lao động đặc biệt. Họ thực hiện quyền lực nhà nước trên 3 lĩnh vực: lập pháp, hành pháp và tư pháp. Vì vậy, các quy định của pháp luật liên quan đến cán bộ, công chức được xác định theo quy định của pháp luật hành chính.

– Cán bộ, công chức được hưởng lương và các quyền lợi khác từ ngân sách nhà nước.

Vì vậy, cán bộ, công chức là những người có quan hệ lao động với nhà nước. Trong mối quan hệ này luôn tồn tại hai yếu tố: Yếu tố tự nguyện của người lao động và ý chí của nhà nước. Sự đồng ý của nhân viên là yếu tố cần thiết và là tiền đề để hình thành mối quan hệ này. Tuy nhiên, ý chí của cơ quan nhà nước có thẩm quyền mới là yếu tố quyết định sự hình thành quan hệ pháp luật giữa hai bên. Nhưng người lao động không có quyền bắt buộc nhà nước phải trao cho họ một số chức vụ hoặc hoạt động nhất định. Khi đã trở thành công chức, bạn không có quyền từ chối công việc được giao. Nhà nước có quyền thay đổi, thuyên chuyển công việc, thậm chí chấm dứt quan hệ, miễn là đảm bảo lợi ích quốc gia.

Đối tượng là cán bộ, công chức hưởng lương từ ngân sách nhà nước. Đặc biệt là những người được tuyển dụng, bổ nhiệm, bổ nhiệm chính thức trong các đơn vị sự nghiệp nhà nước, tổ chức chính trị, tổ chức chính trị – xã hội, trường học, bệnh viện, v.v. Các cơ quan công quyền được hưởng lương và các nguồn thu phi kinh doanh theo quy định của pháp luật từ ngân sách nhà nước.

Để lại một bình luận

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *