Cạnh tranh không lành mạnh – khái niệm, đặc điểm

Nhiều người đã nghe đến cụm từ “hành vi cạnh tranh không lành mạnh” rất nhiều, nhưng ít người biết khái niệm và đặc điểm của nó. hôm nay, công ty luật nghệ an fblaw gửi đến độc giả bài viết khái niệm và đặc điểm của hành vi cạnh tranh không lành mạnh nhằm giúp bạn đọc có cái nhìn cụ thể hơn về hành vi không lành mạnh.

Theo khoản 6 điều 3 luật cạnh tranh năm 2018, hành vi cạnh tranh không lành mạnh được hiểu là: hành vi của công ty làm trái với nguyên tắc thiện chí, trung thực, tập quán thương mại và các quy định khác trong kinh doanh, gây thiệt hại. hoặc có thể gây thiệt hại đến quyền và lợi ích hợp pháp của các công ty khác.

Khái niệm và đặc điểm của hành vi cạnh tranh không lành mạnh

Hành vi cạnh tranh không lành mạnh

1. hành vi cạnh tranh của các công ty trong quá trình kinh doanh

Tính năng này thể hiện các quy định về luật cạnh tranh. Do đó, chủ đề của luật cạnh tranh chỉ bao gồm các công ty thuộc mọi thành phần kinh tế, hợp tác xã, hộ kinh doanh cá thể, công ty nước ngoài hoạt động tại Việt Nam và các hiệp hội ngành hàng. các đối tượng còn lại như đơn vị sự nghiệp, tổ chức tiêu dùng, đơn vị truyền thông, tổ chức phi kinh tế … không thuộc đối tượng áp dụng các quy định của pháp luật về cạnh tranh không lành mạnh. đôi khi trong thực tế nảy sinh tình huống một số tổ chức phi kinh tế, đơn vị truyền thông, v.v. Họ thực hiện các hành vi xâm phạm quyền cạnh tranh bình đẳng của các công ty, ví dụ, bằng cách phổ biến thông tin không trung thực về công ty, ngành và hàng hóa. Dịch vụ…. Với giới hạn của vấn đề ứng xử, luật cạnh tranh không áp dụng để xử lý các tình huống trên. Mặt khác, đặc điểm này cũng khẳng định rằng hành vi cạnh tranh không lành mạnh xảy ra trong kinh doanh ở mọi ngành nghề, mọi lĩnh vực của đời sống kinh tế và ở mọi giai đoạn của quá trình kinh doanh. pháp luật về hành vi cạnh tranh không lành mạnh được áp dụng cho mọi ngành, mọi thành phần kinh tế. nghĩa là luật không giới hạn ở bất kỳ ngành, lĩnh vực hay hoạt động kinh doanh nào của nền kinh tế quốc dân

2. hành vi cạnh tranh trái với các nguyên tắc thiện chí, trung thực, sử dụng thương mại và các quy tắc đạo đức kinh doanh thông thường

Đặc điểm này là cơ sở lý thuyết để xác định tính chất có hại của hành vi. tuy nhiên, “trái với các chuẩn mực đạo đức kinh doanh” là một điều trừu tượng về mặt lý luận và pháp lý. không có cơ sở pháp lý hoặc cấu thành cụ thể để xác định đặc tính này. do đó, cơ quan có thẩm quyền không thể sử dụng khái niệm hành vi không công bằng để gán đặc tính không công bằng cho một hành vi nào đó của công ty. Để khắc phục tình trạng trên, pháp luật cạnh tranh đã tập trung giải quyết hai vấn đề sau:

trước hết, do các phương thức cạnh tranh rất đa dạng, bao gồm cả các thủ đoạn gây nhầm lẫn, lừa dối, vu khống, lợi dụng, gây rối nên luật cạnh tranh năm 2018 đã liệt kê các hành vi cạnh tranh bị coi là không lành mạnh và các quy định pháp luật cấu thành. luật cạnh tranh của hầu hết các nước như cộng hòa liên bang đức, nhật bản … đều có cách tiếp cận tương tự, đó là ngoài việc đưa ra khái niệm hành vi cạnh tranh không lành mạnh (điều 1 luật chống cạnh tranh). Cộng hòa liên bang Đức quy định: “bất kỳ người nào trong một mối quan hệ kinh doanh thực hiện hành vi vì mục đích cạnh tranh, nhưng trái với truyền thống thương mại lành mạnh, có nghĩa vụ ngừng hành vi.” và thiệt hại ”) cũng liệt kê và mô tả từng hành vi được coi là không lành mạnh trong cạnh tranh. Khái niệm hành vi cạnh tranh không lành mạnh được quy định trong luật cạnh tranh của Việt Nam và các nước chỉ có ý nghĩa lý luận. Trên thực tế, việc áp dụng sẽ dựa trên các quy định về từng hành vi xâm phạm cụ thể như chỉ dẫn sai, xâm phạm bí mật kinh doanh, bôi nhọ công ty khác….

hai, các tiêu chuẩn chung về đạo đức kinh doanh được xác định trên hai cơ sở sau:

– căn cứ quy định là những quy phạm đã được pháp luật lượng hóa, một khi hành vi đó trái với quy định của pháp luật sẽ bị coi là không lành mạnh. trong trường hợp này, cạnh tranh không lành mạnh đồng nghĩa với cạnh tranh bất hợp pháp. do đó, hành vi cạnh tranh không lành mạnh có thể là hành vi của tổ chức, cá nhân thương mại vi phạm điều cấm của pháp luật (bao gồm cả điều luật cấm cạnh tranh và các văn bản quy phạm pháp luật khác như luật thương mại, luật quản lý giá, luật sở hữu trí tuệ ). tài sản, v.v.) hoặc vi phạm các tiêu chuẩn lành mạnh do pháp luật quy định như luật khuyến mại quy định giới hạn giá trị khuyến mại như sau: “mức giảm giá tối đa cho hàng hóa, dịch vụ được khuyến mại không được vượt quá 50% giá của hàng hóa, dịch vụ đó ngay trước thời gian khuyến mại (Điều 6 Nghị định số 37/2006 / nd-nd-cp) quy định chi tiết luật thương mại về hoạt động xúc tiến thương mại).

– các thông lệ kinh doanh được chấp nhận chung áp dụng cho hành vi không được pháp luật quy định là cạnh tranh không lành mạnh. hay nói cách khác, căn cứ này là một biện pháp dự phòng được áp dụng trong trường hợp pháp luật chưa quy định một hành vi cụ thể mà khi thực hiện hành vi này đã xâm phạm đến quyền cạnh tranh của tổ chức, người khác, lợi ích hợp pháp của doanh nhân. của người tiêu dùng và trái với thông lệ thương mại. cơ sở này đã tăng khả năng điều chỉnh, khắc phục tình trạng lạc hậu của pháp luật cạnh tranh. Cho đến nay, luật cạnh tranh vẫn chưa quy định những hoạt động kinh doanh nào được coi là chuẩn mực đạo đức chung.

Hành vi trái với đạo đức kinh doanh thông thường của hành vi cạnh tranh không lành mạnh đòi hỏi pháp luật cạnh tranh phải luôn được điều chỉnh, bổ sung để phù hợp với thực tế. Nhận thức về các dấu hiệu và biểu hiện cụ thể của sự không lành mạnh luôn thay đổi và có sự khác biệt tùy theo điều kiện và hoàn cảnh cụ thể như sau: – Khái niệm về sự không lành mạnh là kết quả của các khái niệm liên quan đến xã hội học, kinh tế hoặc đạo đức của một xã hội nhất định, có thể dẫn đến hiện tượng hành vi cạnh tranh bị coi là cạnh tranh không lành mạnh ở nước này nhưng lại được coi là công bằng ở nước kia.

– Trong nhịp sống của thị trường, các hành vi cạnh tranh không ngừng được tạo ra về hình thức và phương thức cạnh tranh, làm nảy sinh những thủ đoạn cạnh tranh không lành mạnh, muôn màu muôn vẻ. do đó, phạm vi của khái niệm cạnh tranh không lành mạnh cũng phải luôn được bổ sung với nhận thức của mọi người về bản chất không lành mạnh của các hành vi mới phát sinh.

– Hiện nay, luật cạnh tranh của các nước, các lý thuyết liên quan đến cạnh tranh vẫn chưa đưa ra các tiêu chuẩn chung về tính lành mạnh của hành vi cạnh tranh mà chỉ dựa trên việc phân tích hậu quả và ảnh hưởng của các hành vi cạnh tranh trong kinh tế và các khía cạnh xã hội. cuộc sống để xác định mức độ sức khỏe và biểu hiện của các hành vi đó. Khi thị trường thay đổi và phát triển, nhận thức về ảnh hưởng của từng hành vi trên thị trường cũng thay đổi theo. có thời điểm, hành vi nhất định có thể gây nguy hiểm cho xã hội, nhưng lúc khác không có điều kiện gây hại cho đối thủ cạnh tranh hoặc người tiêu dùng. sự thay đổi đó đã làm thay đổi phạm vi của khái niệm cạnh tranh không lành mạnh.

Đặc điểm của hành vi cạnh tranh không lành mạnh

3.Hành vi gây thiệt hại, có thể gây thiệt hại đến lợi ích của Nhà nước, doanh nghiệp khác và người tiêu dùng

hành vi cạnh tranh không lành mạnh với đối tượng xâm phạm cụ thể là lợi ích của nhà nước, các công ty khác và người tiêu dùng. hơn nữa, tác hại do hành vi gây ra có thể là có thật (đã xảy ra) nhưng cũng có thể tiềm ẩn (có căn cứ xác định rằng hậu quả chắc chắn sẽ xảy ra nếu hành vi đó không được ngăn chặn). do đó, một số hành vi cạnh tranh không lành mạnh có cấu thành vật chất (tác hại là dấu hiệu bắt buộc) như bôi nhọ các công ty khác; một số hành vi cấu thành hình thức (thiệt hại không phải là dấu hiệu bắt buộc nhưng có thể là suy đoán nếu hành vi tiếp tục), ví dụ như quảng cáo không công bằng….

Các đặc điểm của hậu quả của hành vi giúp chúng ta phân biệt dưới góc độ lý thuyết của hành vi cạnh tranh không lành mạnh và hành vi phản cạnh tranh. hành vi chống cạnh tranh là hành vi của một công ty hoặc một nhóm công ty làm thay đổi tiêu cực tình hình cạnh tranh hoặc làm giảm tác dụng của nó trên thị trường. hành vi chống cạnh tranh có thể gây hại cho một hoặc nhiều nhóm cụ thể, nhưng nghiêm trọng hơn, nó cản trở, làm tổn hại hoặc bóp méo cạnh tranh. Mặt khác, hành vi cạnh tranh không lành mạnh chỉ gây thiệt hại cho tổ chức, cá nhân kinh doanh khác hoặc cho người tiêu dùng, xâm phạm trật tự quản lý cạnh tranh của Nhà nước mà không cản trở, lừa dối, làm giảm sức cạnh tranh trên thị trường. do đó, cách thức và mức độ xử lý của hai loại hành vi này là khác nhau. Dưới góc độ lịch sử phát triển, đặc điểm hậu quả của hành vi cạnh tranh không lành mạnh thay đổi theo thời gian tùy thuộc vào nhận thức của con người về mức độ nguy hiểm và mức độ thiệt hại của hành vi đó đối với khách hàng, lợi ích cần được pháp luật bảo vệ. Trong thời kỳ đầu, pháp luật cạnh tranh chỉ nhằm chống lại những biểu hiện không lành mạnh xâm phạm lợi ích của đối thủ cạnh tranh theo quan niệm rằng cạnh tranh phải là sự đối đầu giữa các đối thủ trên thị trường, do đó các hành vi vi phạm lợi ích của người tiêu dùng không được đưa vào. khái niệm về cạnh tranh không lành mạnh. Cùng với sự phát triển của nền kinh tế thị trường, các hành vi không lành mạnh với khách hàng (người tiêu dùng) được thực hiện, tưởng như không liên quan đến đối thủ cạnh tranh, nhưng thực tế lại gây thiệt hại, thậm chí làm xáo trộn trật tự và hệ thống cạnh tranh hiện có (cơ quan nhà nước và cơ quan điều tra pháp luật). Vì lý do này, khái niệm về hành vi cạnh tranh không lành mạnh đã khiến luật chống cạnh tranh không lành mạnh được mở rộng phạm vi bao gồm các hành vi đe dọa lợi ích của khách hàng và người tiêu dùng.

Hơn 20 năm phát triển thị trường ở Việt Nam cho thấy có sự cạnh tranh không lành mạnh trong các thành phần kinh tế. Ngoài khu vực độc quyền của doanh nghiệp nhà nước, ở các khu vực khác của thị trường Việt Nam đều có sự cạnh tranh ở một mức độ nhất định. trong điều kiện thực hiện kinh tế thị trường, ở đâu có cạnh tranh, ở đó có cạnh tranh không lành mạnh. Cạnh tranh không lành mạnh cũng xảy ra trong thị trường mỹ phẩm và nước giải khát và trong lĩnh vực quảng cáo, khuyến mại, tiếp thị, v.v. Các hành vi cạnh tranh không lành mạnh rất đa dạng và luôn thay đổi về phương thức thực hiện. Ví dụ, trong lĩnh vực quảng cáo, có thể nghi ngờ tính xác thực của thông tin được cung cấp (về khả năng tăng cường trí thông minh của thuốc dinh dưỡng, về tác động của các sản phẩm sữa đối với trẻ em, v.v.), khi so sánh với các doanh nghiệp kinh doanh mỹ phẩm.

Ở trên là khái niệm và đặc điểm của hành vi cạnh tranh không lành mạnh. Để được tư vấn, lắng nghe những lời khuyên mới nhất, chính xác nhất từ ​​ luật sư giỏi , hãy liên hệ với chúng tôi qua đường dây nóng 0385953737 hoặc 0973.098.987.

lời chào.

Để lại một bình luận

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *