Catholic Là Gì? Đạo Thiên Chúa Hay Đạo Công Giáo

Xem: Công giáo là gì

Tin Mừng Chúa nhật & Lễ trọng thể – Lời nguyện cho Giới trẻ, Sinh viên

Xem thêm: Tải hack đế chế aoe, hack aoe, hack map (đế chế) aoe + tài nguyên

Xem thêm: Cân tiếng Anh là gì? Nghĩa của “cân nặng” trong tiếng Anh

Vấn đề thuật ngữ công giáo và công giáo đã được chúng tôi và một số nhà nghiên cứu nêu ra nhiều lần nhưng vẫn được tranh luận hàng ngày trên các diễn đàn. Hầu hết mọi người không cần biết nguồn gốc lịch sử hay ý nghĩa của hai danh từ này, họ chỉ nói theo cảm nhận (feeling) hoặc ác ý của họ. Vì vậy, chúng tôi muốn tóm tắt lại câu hỏi.

Các nhà ngôn ngữ học đã phát hiện ra rằng 5 trong số 7 chữ tiếng Việt có nguồn gốc từ chữ Hán, phần lớn được phiên âm dưới dạng Hán Việt, và một số được chuyển nghĩa. Tên riêng cũng thường có phiên âm hoặc phiên âm, chẳng hạn evangelical dịch thành phúc âm, orthodox dịch thành chính thống, phật dịch thành Phật giáo, rousseau dịch thành lu-thoa, platon dịch thành ba-lạp-đồ, washington dịch thành hoa nở, Paris Đó là múa ba lê, v.v.

1.- Danh từ “Kitô giáo” hay “Thiên chúa giáo”.

Tra cứu từ điển và niên giám bằng tiếng nước ngoài trong thế giới ngày nay, chúng ta không thấy bất kỳ tôn giáo nào được đặt tên theo “Kitô giáo” hay “Thiên chúa giáo”, ngoại trừ Trung Quốc. . Những người theo Chúa Giêsu Kitô được gọi là chrétien (tiếng Pháp), Christian (tiếng Anh), hay Christian (tiếng Việt). Những danh từ này bắt nguồn từ tiếng Hy Lạp christos hoặc khristos và tiếng Latinh christus. Từ Jesus được phiên âm là ye-su trong tiếng Trung Quốc và jesus trong tiếng Việt. Từ Christ đầu tiên được phiên âm bởi người Việt Nam là khiriti, sau đó là kirito, và bây giờ là christ. Từ Christ, khi được dịch ra, có nghĩa là sự cứu rỗi. Vậy jesus christ được phiên âm là Jesus Christ.

Như đã đề cập trước đó, tên jesus được phiên âm thành ye-su trong tiếng Trung Quốc. Đối với các sách cấm của nhà Nguyễn, chữ Hán cũng viết là có-tử, nhưng phiên âm ra chữ nôm và đọc là dato hoặc château. Trong một số trường hợp, các sắc lệnh này còn gọi tôn giáo của Chúa Giêsu Kitô là tôn giáo Hoa lang vì họ lầm tưởng rằng tôn giáo này thuộc về người Bồ Đào Nha! Các giáo sĩ phương Tây và người Việt theo đạo Thiên chúa không bao giờ chấp nhận cách phiên âm hay cách gọi này. Giám mục Paul François Pourguignier đã viết trong cuốn sách “Những sự thật thiết yếu” (1882): “Ngôn ngữ của da, mà những kẻ thù ghét đã quen sử dụng, là một ngôn ngữ vô nghĩa ở đất nước Annan… …” Tất nhiên, từ da– da– hoặc từ cathode phiên âm hoặc dịch từ công giáo, như một số người đã làm như vậy hoặc cố tình liên kết với ác ý, vì hai từ này là điều cấm kỵ trong câu chuyện ngụ ngôn của jesus. Phiên âm của từ này, và từ công giáo là hoàn toàn khác nhau. Ai dùng danh từ dato hay catholic để chỉ người Công giáo là cố tình vu khống.

Ngày nay, tôn giáo của Chúa Giêsu Kitô được gọi là Christian trong tiếng Anh, và Giáo hội Công giáo ở Việt Nam thường phiên âm là Cơ đốc giáo, trong khi một số hệ phái Tin lành phiên âm là Cơ đốc giáo (jidu jiao). Các thuật ngữ này bao gồm tất cả các giáo phái của Chúa Giêsu Kitô, chẳng hạn như Tin lành, Anh giáo, Chính thống giáo, Công giáo La Mã, v.v.

Người Việt Nam thường gọi tôn giáo do Chúa Giê-su sáng lập là “Thiên chúa giáo” hay “Công giáo”. Từ này cũng xuất phát từ Trung Quốc. Vào khoảng thế kỷ XVI, khi các nhà truyền giáo phương Tây đến Trung Quốc, họ muốn lấy một cái tên phù hợp với văn hóa Trung Quốc. Họ phát hiện ra rằng trong văn học cổ đại Trung Quốc có câu: “Zhi Gao Mo Nian Tian, ​​Supreme Master Mo Nian”, có nghĩa là “cao nhất không giống như bầu trời, và tối cao không giống như giáo viên.” Họ thấy hai từ Tianguo và Shifu trong tiếng Hán rất hợp với từ “God” (deus, thần) trong Kinh Thánh nên quyết định dùng từ God để chỉ Jesus Christ, nghĩa là Chúa Giê-xu Christ. Đó là “Allah của trời và đất”, tức là “Allah của trời và đất”.

Tuy nhiên, khi du nhập vào Việt Nam vào khoảng thế kỷ 16, 17, đạo này được gọi là Thiên chúa giáo, vì đó là thời kỳ trị vì của các vị hoàng đế – triều đại chúa Nguyễn, và nhà vua chỉ có hư danh. . Trong chữ Hán, các từ “sư phụ” và “shen” được viết đồng nghĩa.

2.- Danh từ công giáo

Về mặt lịch sử, thuật ngữ Nhà thờ Công giáo lần đầu tiên xuất hiện trong một bức thư của Thánh Ignatius ở Antioch gửi cho Smyrna thế tục (tức là ở Izmir, Thổ Nhĩ Kỳ ngày nay) vào khoảng năm 110 sau Công nguyên. Có nhiều tín đồ; giống như ở đâu có Chúa Giêsu, ở đó có Giáo hội Công giáo” có nghĩa là: “Ở đâu có giám mục, ở đó có vô số tín đồ, và ở đâu có Chúa Giêsu, ở đó có Giáo hội Công giáo” (Thư gửi cho Cimini 8:2).

Thánh Inhaxiô là vị giám mục thứ ba của Kitô giáo (98-117) và là môn đệ của Thánh Gioan. Vị giám mục đầu tiên là Thánh Phêrô do chính Chúa Giêsu thành lập, và vị giám mục thứ hai là Thánh Evosius.

Thật ra, ngay từ đầu, danh từ Giáo hội Công giáo đã được ghi trong bản tuyên xưng đức tin, thường được gọi là tín điều, do các môn đệ của Chúa Giêsu lập ra, và tên tiếng Anh là symbolum apostolicum (biểu tượng hay tín điều của Giáo hội Công giáo). tông đồ) trong tiếng Latinh, có nghĩa là Lời tuyên xưng đức tin của Tông đồ. Trong đoạn 8 của lời cầu nguyện này nói rằng tôi tin vào Giáo hội Công giáo (sanctam ecclesiam catholicam). Hãy đọc lời tuyên bố đức tin này tại lễ báp têm.

Từ ngày 20 tháng 5 năm 325, Bản Tuyên xưng Đức tin của Công đồng Nicaea được đọc trong Thánh lễ hàng ngày của Giáo hội Công giáo, cũng sử dụng thuật ngữ “ecclesiam catholicam”. Lời tuyên xưng đức tin này cho thấy Giáo hội có bốn đặc tính: “duy nhất, thánh thiện, công giáo và tông truyền” (et unam sanctam catholicam et apostolicam ecclesiam).

Ngày nay, thuật ngữ ecclesia catholica được sử dụng chính thức trong các văn kiện của Công đồng Vatican II (nostra aetate, 2:3), khi ký vào các văn kiện của Công đồng, Đức Thánh Cha Phaolô IV đã viết: “Tôi, Phaolô, Giám mục của Nhà thờ Công giáo” (Tôi, Paul, Giám mục của Nhà thờ Công giáo), và ký tên. Danh từ giáo hội công giáo cũng được đưa vào Điều 11 của Giáo luật.

Tiếng Latinh ecclesia, tiếng Anh Church (capital) hay tiếng Pháp Église (thủ đô), được các nhà truyền giáo Công giáo Việt Nam dịch là nhà thờ hay nhà thờ.

Từ catholica bắt nguồn từ tiếng Hy Lạp kathicos, có nghĩa là phổ quát hoặc toàn bộ. Lúc đầu, các giáo sĩ phương Tây không biết dịch từ “sanctam ecclesiam catholicam” sang tiếng Việt, nên trong bản tuyên xưng đức tin bằng tiếng Việt, lúc đầu đọc là “Tôi tin có sancta ighêleja catholica”, sau đó là bản tuyên ngôn này của đức tin đã được dịch và Cụm từ “santam ecclesiam catholicam” được dịch là tôi tin rằng “có một nhà thờ vĩnh cửu trên khắp trái đất”. Chữ “thường trú mọi nơi” cũng tước bỏ chữ công giáo nghĩa là phổ quát, ai cũng có, nhưng không gọn lắm, nên các giáo sĩ Việt Nam quyết định dịch chữ công giáo thành công giáo, được đưa vào bản dịch Đại Phiên họp của Hội đồng Nicaea.

Tại sao Catholica được dịch là Công giáo?

Vì trong chữ Hán, chữ Công là nghĩa chung cho mọi người. Mở từ điển đạo duy anh tra chữ “cong”, ta thấy chữ này được hiểu là “việc chung”, “mọi người”, rất gần với nguyên ngữ Hy Lạp kathicos. Các từ điển Hán Việt khác cũng giải thích công là chung. Tất nhiên, cũng như các từ khác, chữ “Công” còn có nhiều nghĩa khác, như cồng là quan, cồng là bố vợ, cồng là nam… (xem thiều chửu Hán tự điển). Chữ Hán của những ký tự này được viết giống nhau, nhưng ý nghĩa của mỗi trường hợp là khác nhau.

Từ lâu, người Trung Quốc cũng đã dùng từ công để dịch từ catholica trong việc tuyên xưng đức tin “môn đệ” (từ ighêregia là phiên âm của từ ecclesia). Từ đó đến nay có ai coi đạo Công giáo là quốc giáo không? Các nhà truyền giáo, giáo sĩ Việt Nam cũng dịch từ công giáo thành công giáo và công giáo thành công giáo.

Tên của một tôn giáo thường được lấy từ tên của người sáng lập ra tôn giáo đó, chẳng hạn như Phật giáo, Nho giáo, Đạo giáo, hoặc tên nơi khai sinh ra tôn giáo đó, chẳng hạn như Ấn Độ giáo, Do Thái giáo hay Anh giáo, hoặc được dịch là evangelicals là evangelicals, orthodox là Orthodox, Catholic là Catholic… chuyện bình thường.

Đọc phần phiên âm hay dịch thuật các thuật ngữ Phật giáo từ kinh điển Pali-Sanskrit, Tạng ngữ sang chữ Hán, rồi từ chữ Hán sang tiếng Việt, chúng tôi thấy phức tạp hơn nhiều. Xin dẫn một vài ví dụ cụ thể: Công án (gong-an.koan): Chữ Hán viết giống hệt từ công án Công giáo, theo nghĩa gốc, công án có nghĩa là phiên tòa công khai để phân định đúng sai của nhà cầm quyền. . Nhưng trong Thiền tông, thuật ngữ này chỉ một phương pháp thực hành thiền định cụ thể (Phật giáo từ điển, Chân Nguyên và Nguyên Tường Bách, Huế 1999). Có ai từng nói rằng công án trong Phật giáo là sự phán xét của nhà nước? Một thí dụ khác: danh từ cư sĩ lấy từ chữ Phạn grhapati và chữ Pali gahapati, phiên âm sang Hán ngữ là kulapati, Hán ngữ đã dịch sang cala-việt (Phật từ điển, sđd), nhưng hiện nay Phật tử thường gọi cư sĩ kulapati, không ai có quyền để Buộc họ gọi kulapati cala-việt, không phải là cư sĩ.

Cho đến ngày nay, Công giáo Trung Quốc vẫn gọi là Catholicism (Công giáo), và các từ điển Anh-Trung hay Pháp-Trung vẫn dịch catholic Church (Anh) hoặc Église catholique (Anh) sang tiếng Trung. là tôn giáo chính. Nhiều người Việt Nam cũng gọi Công giáo là Cơ đốc giáo, nhưng đây không phải là tên chính thức.

Related Articles

Back to top button