sự xuất hiện của công việc “người thu gom”
Không có một tài liệu nào nói về sự ra đời của nghề, cũng như các văn bản hành chính cũ xác định vai trò của làng mỏ.
trong số 2 (12) tháng 2 năm 1995 của tạp chí Xưa và Nay, hai nhà ngôn ngữ học Nguyễn Văn Sử và Nguyễn Xuân Diễn cho biết: “có hai tài liệu quan trọng giúp xác định sự ra đời của nhân vật này là Hồng đức quốc âm thiết và trò chơi chèo cổ quan âm có thị kính trong phần phụ lục của thi âm hồng đức quốc, có bài hát trong thị kính mẹ của quan âm phủ là vợ của ông nhưng đã có người khẳng định rằng vở chèo này ra đời từ thế kỷ XV. “. Điều này cho phép chúng ta khẳng định: nghề võ đã có từ rất lâu đời trước khi được đưa vào văn nhà dài.
Qua khảo sát của nhiều nhà nghiên cứu về văn hóa truyền thống làng Việt, hầu hết các làng Việt ở đồng bằng Bắc Bộ và Bắc Trung Bộ, trừ những làng mới thành lập hoặc rất nghèo, đều có đông người qua lại.
điểm chung nhất mà tất cả họ đều có là “cư dân”. trong quá khứ, cư dân thường bị coi thường trong cộng đồng thị trấn.
Để trở thành cư dân, ít nhất phải đáp ứng hai điều kiện: đã sống ít nhất 3-5 thế hệ và có tài sản nhỏ.
Điều kiện thứ hai có thể là do đặc điểm của một xã hội tiểu nông nơi sở hữu tư nhân đối với một phần nhỏ đất canh tác đáp ứng các điều kiện làm người. Điều kiện đầu tiên có phải là bản năng tự vệ của mỗi cộng đồng trước diện tích đất canh tác hạn hẹp và luôn phải đối mặt với sức ép về nhân khẩu học?
Những người đến định cư phải chịu thân phận thấp kém, bị dân làng khinh miệt, phải dựng nhà ở ngoại ô, không được vào long đình, không được tham gia việc làng, không được hưởng ruộng công và sống bằng làm thuê. , thông báo…
tại thời điểm ra đời đó, có thể xác minh rằng làng đã ổn định về tổ chức và chỉ có một làng chứ không có huyện, bang hay làng …
vai trò của mõm
Những người thông báo về muo thường bị coi thường, được gọi là “muo”, đã đóng một vai trò quan trọng trong truyền khẩu của Việt Nam trong suốt nhiều thế kỷ. người thông báo ảo thuật gia thường cầm trong tay một cây trúc khô và một cái xiên tre, gõ một lúc để mọi người nghe thấy, rồi cất giọng để mọi người biết tin tức hoặc lệnh của nhà vua, hoặc bất cứ điều gì muốn quảng cáo.
Người đăng quảng cáo là “chân rết” trong hệ thống thông tin cũ và khác người hầu, người thuê của chủ. con la không thuộc về ai, nó thuộc về cả thị trấn. của tôi là công việc dịch vụ, không phải công việc sản xuất, vì vậy nó không liên quan nhiều và trực tiếp đến các lĩnh vực và công cụ lao động.
phải tránh xa những tranh chấp, bè phái, biên giới trong làng. nó ở gần văn phòng dịch thuật nên biết rõ nội dung tranh chấp giữa các cá nhân, gia đình nhưng không ủng hộ phe phái nào, không có những hành vi tiêu cực trong đời sống cộng đồng.
Mô bị dân làng khinh thường, nhưng không ai ghét anh hơn những tên trộm hay ông trùm. các con tôi sinh ra không được học hành đến nơi đến chốn, khi lập gia đình chỉ có thể lấy vợ gả chồng cho con, và vô hình trung, “nghề” của chúng trở thành cha truyền con nối. Khi làng có đảo chính, cả gia đình được huy động để làm “việc làng”, chia nhau ra thì dân làng cũng chia nhau ăn riêng, ăn không hết thì mang về …
“Nghề cắt cỏ” và người làm ruộng có lẽ là một nét độc đáo của làng quê Việt Nam xưa và đây cũng là một nghề đặc biệt trong tổ chức xã hội thời phong kiến.
bui huu cuong
vnh k08 đại học quang nam