NTO – Tiểu sử Nguyễn Đình Chiểu

Thân sinh của ông là Nguyễn Đình Huy, quê ở xã Bồ Điền, huyện Phong Điền, tỉnh Thừa Thiên (nay là xã Phong An, huyện Thông Điền, tỉnh lị), là thư của Tổng đốc Lê Văn Duyệt. Mẹ bà là Trương Thị Thiết quê ở làng thanh ba, huyện phú lộc, phủ can tân, tỉnh Jiading.

Khi còn là một thiếu niên, Ruan Dingzhao đã chứng kiến ​​sự hỗn loạn trong xã hội lúc bấy giờ, đặc biệt là cuộc nổi dậy của Li Wenke ở Jiading. Cuộc nổi dậy này dẫn đến việc cha ông phải trốn vào Huế và bị cách chức. Năm 1833, cha ông trở lại miền nam và gửi ông cho một người bạn ở Huế để tiếp tục học. nguyen dinh chieu sống ở Huế từ 12 đến 19 tuổi.

Năm 1843, ở tuổi 21, ông đỗ cử nhân tại Trường Khảo thí Jiading. Khi đó, một gia đình võ sư đã hứa gả con gái cho ông.

Năm 1847, ông vào học ở Huế, chờ đến kỳ thi Kỷ Dậu 1849. Nhưng ông chưa kịp đi thi thì nghe tin mẹ mất ở Sài Gòn (1849). Trên đường về chịu tang mẹ, vì thời tiết không ổn định và công việc vất vả, nhiều lần anh khóc, anh đổ bệnh và bị mù. Trong thời gian điều trị tại Quảng Nam, tuy tình trạng không cải thiện nhưng ông đã được một danh y chỉ dạy các kỹ năng chữa bệnh.

Bị mù, mất mẹ, bị hôn thê phản bội, gia đình sa sút … Ông đóng cửa chịu tang cho đến năm 1851, khi mở trường dạy học và y khoa.

Năm 1854, một thư sinh tên là Lê tang quynh vì quá ngưỡng mộ và mến mộ ông nên đã cầu hôn với người em gái thứ năm là Lê Thị Diễn (1835-1886). (long an), dành cho cô giáo …

Kể từ đó, gần mười năm sau, ngoài hai điều trên, ông còn làm thơ về Lu Wentian và Tangtu Hamai để bày tỏ tình yêu và hoài bão của mình.

Ngày 17 tháng 2 năm 1859, quân Pháp chiếm lâu đài Jiading. Anh và gia đình chạy về làng Thanh Ba, huyện Cần Giuộc, quê vợ của anh. Cũng chính tại đây, ông đã viết nên những tác phẩm văn học của nhà hảo tâm Giangio, được nhiều người đánh giá cao.

Khi 3 tỉnh miền Đông rơi vào tay Pháp và không chịu sống trong vùng bị chiếm đóng, Ruan Dinh Chiu cùng đoàn tùy tùng đi thuyền đến tỉnh Vĩnh Long (huyện Ba Tri, tỉnh Bình Thủy ngày nay), Tổng An. Cục Làng Andh tỉnh). Tại đây, ông tiếp tục dạy học và bốc thuốc, đồng thời duy trì liên lạc với các học giả yêu nước và các lực lượng kháng chiến như Pan Wenzhi, Nguyễn Thông; từ chối mọi lời dụ dỗ của đối thủ.

Lần này, Ruan Dingzhao đã viết một bài thơ bi thảm nhất để tỏ lòng thương tiếc những người đồng hương, bạn bè và các liệt sĩ đã khuất.

Ông mất tại Ba tri, Bến Tre vào ngày 3 tháng 7 năm 1888. Người ta kể rằng vào ngày chôn cất ông, cả vùng đất miền Đông thời bình, nay là Ender, đã bị nhuộm trắng bởi khăn tang của những người yêu mến ông.

Để lại một bình luận

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *