Sức lao động là hàng hóa mà con người sử dụng trong hoạt động lao động của mình. Học thuyết hàng hoá sức lao động do C.C. xác lập đề cập đến nội dung sử dụng và phát triển loại hàng hoá đặc biệt này. Trong một xã hội tư bản, sức lao động được bán như một loại hàng hóa, cung cấp giá trị thặng dư cho giai cấp tư sản. Từ đó, lao động trở thành yếu tố không thể thiếu để giai cấp thống trị làm giàu.
Tư vấn pháp luật trực tuyến miễn phí Qua Tổng đài: 1900.6568
1. Lực lượng lao động là gì?
1.1. Khái niệm lực lượng lao động:
Triết lý lao động:
Sức lao động là khả năng lao động của con người, được phản ánh trong công việc. Đây là tiền đề của mọi quá trình sản xuất và là lực lượng sản xuất sáng tạo chủ yếu của xã hội. Lao động mang lại thành quả của việc giải quyết vấn đề. Con người tạo ra những sản phẩm đáp ứng nhu cầu chất lượng cao từ những nguyên liệu sản xuất thô.
Nhưng sức lao động chỉ là khả năng lao động, còn sức lao động là sự tiêu hao sức lao động trên thực tế. Lực lượng lao động hoạt động để hoàn thành mục đích sản xuất và hoạt động ban đầu. Thông qua đó có thể thu được lợi nhuận từ việc bán sản phẩm và dịch vụ.
Tức là sức lao động của con người trong quá trình sản xuất và quản lý cung cấp năng suất sáng tạo chủ yếu của xã hội. Từ đó biến nguyên vật liệu thô thành sản phẩm có giá trị để thu thặng dư. Sức lao động là khả năng lao động, còn sức lao động là sự tiêu hao sức lao động trong quá trình lao động. Qua đó giúp con người ngày càng làm chủ xã hội, đáp ứng nhu cầu cuộc sống.
Đây là đối tượng phân tích dưới góc độ triết học Mác:
Sức lao động, theo quan điểm của triết học Mác, là toàn bộ sức lực vật chất có trong con người, tồn tại trong cơ thể con người sống, được con người này sử dụng và mỗi khi sản xuất ra một sản phẩm nào đó, sản xuất ra một giá trị thặng dư nào đó, trí lực và khả năng tinh thần. Chuyển hóa thông qua nó giúp con người đáp ứng nhu cầu vật chất.
Lao động là một khái niệm quan trọng trong kinh tế chính trị học mácxít. Nó được nghiên cứu để minh họa nguồn gốc và bản chất của giá trị thặng dư. Lúc này giá trị thặng dư được gọi là lợi nhuận.
1.2. Lao động hàng hóa là gì?
Hàng hóa sức lao động là kết quả của quá trình lao động trong một thời gian nhất định. Người ta sử dụng nó để sản xuất sản phẩm và cung cấp dịch vụ đáp ứng nhu cầu của khách hàng. Sức lao động được trao đổi như một loại hàng hóa. Công nhân làm việc và cống hiến sức lao động của họ để được trả lương theo giờ. Tuy nhiên, giá trị họ tạo ra có thể gấp nhiều lần lợi nhuận.
Xem thêm: lý thuyết lao động hàng hóa của c. Dán nhãn cho thị trường lao động Việt Nam
Sản phẩm lao động được tạo ra khi có các điều kiện sau:
– Người lao động được tự do sử dụng sức lao động của mình để đổi lấy một giá trị khác. Như làm việc để lấy lại tiền hoặc một loại hàng hóa nào đó.
– Bản thân người lao động không được tự mình kinh doanh. Họ phải tham gia vào dây chuyền sản xuất, sử dụng nguyên vật liệu, phương tiện, công cụ của chủ lao động. Vì vậy, họ phải bán sức lao động để phục vụ cho mục đích mưu sinh, mưu sinh. Nhận thanh toán cho công việc được thực hiện.
Khi hai điều kiện trên tồn tại song song thì sức lao động sẽ trở thành hàng hóa và trở thành điều kiện cần thiết.
2. Lý thuyết hàng hóa lao động:
Theo c.Sức lao động là toàn bộ thể chất, nhân cách, thể lực và trí lực của con người, được con người sử dụng để sản xuất ra những sản phẩm có giá trị sử dụng. Mọi người làm việc có mục đích để tạo ra những sản phẩm cuối cùng có giá trị. Các sản phẩm này nhằm mục đích kinh doanh phục vụ nhu cầu của khách hàng. Như vậy, nhà tư bản kiếm được nhiều hơn số vốn ban đầu bỏ ra.
Trong bất kỳ xã hội nào, sức lao động cũng là điều kiện cơ bản của sản xuất. Cần phải có lao động để tạo ra quá trình sản xuất kinh doanh. Nhưng sức lao động không phải lúc nào cũng là hàng hóa.
Sức lao động chỉ là hàng hóa khi:
+ Thứ nhất, người lao động phải được tự do về thể chất và làm chủ được sức lao động của mình. Chỉ cần bạn có tình trạng sức khỏe hoặc trình độ, kinh nghiệm đáp ứng được yêu cầu công việc. Họ có quyền bán sức lao động của mình như một món hàng. Những người này là công nhân, người làm thuê và phải chịu sự quản lý của những người thuê họ làm công việc của họ.
+ Thứ hai, những người có khả năng lao động phải bị tước bỏ mọi tư liệu sản xuất, tư liệu sinh hoạt và trở thành “người vô sản”. Ngoài việc bán sức lao động và làm việc bán thời gian, họ không thể tìm được việc làm để trang trải cuộc sống. Để tồn tại, người đó buộc phải bán sức lao động của mình để kiếm sống. tức là phải đến làm việc và làm việc theo yêu cầu.
Thuộc tính của lao động hàng hóa, giống như bất kỳ hàng hóa nào khác. Sức lao động hàng hóa cũng có hai thuộc tính giá trị và giá trị sử dụng.
Các nhân tố quyết định giá trị sản phẩm lao động:
Giá trị của sức lao động hàng hóa được xác định bằng lượng thời gian lao động cần thiết để sản xuất và tái sản xuất sức lao động. Mọi người có thể quen với công việc, làm việc nhanh hơn để tạo ra nhiều sản phẩm hơn. Sức lao động là khả năng làm việc liên quan đến đời sống con người. Qua đó cung cấp những hàng hóa có thuộc tính độc đáo thể hiện qua thành quả lao động.
Vì vậy, để duy trì các hoạt động bình thường của con người, cần có một số phương tiện sản xuất nhất định. Những tài liệu này có sẵn cho người sử dụng lao động. Chỉ tham gia giám sát và quản lý, không trực tiếp tham gia lao động.
Giá trị của hàng hoá sức lao động là giá trị của những tư liệu sản xuất cần thiết cho quá trình sản xuất và tái sản xuất ra sức lao động.
Giá trị của hàng hóa và sức lao động bao gồm:
Giá trị của sức lao động, một hàng hóa, được xác định một cách gián tiếp thông qua giá trị của tư liệu sản xuất là sức lao động. Các nhà tư bản có kế hoạch kiếm lợi nhuận khổng lồ trong hoạt động kinh doanh. Bao gồm:
+ Giá trị tư liệu sản xuất vật chất và tinh thần cần thiết để tái sản xuất sức lao động và duy trì hoạt động sống của mỗi người lao động. Bằng cách này, họ có thể đảm bảo rằng tiền lương của họ được sử dụng cho nhu cầu sống của họ.
Ngoài ra còn có chi phí đào tạo công nhân đạt trình độ kỹ năng phù hợp; đây là sự khác biệt dẫn đến tiền lương cao hơn.
+ Giá trị đời sống vật chất và tinh thần của gia đình công nhân.
Đặc điểm của hàng hóa sức lao động:
Giá trị sử dụng của sức lao động hàng hoá là phương tiện thoả mãn nhu cầu lao động của người sử dụng lao động. Giá trị này phản ánh chất lượng và hiệu quả thực hiện lao động.
Khác với hàng hóa thông thường (sau một thời gian tiêu dùng sẽ mất dần giá trị và giá trị sử dụng), hàng hóa sức lao động khi được tiêu dùng không chỉ sản xuất ra một loại hàng hóa mà còn tạo ra một giá trị mới lớn hơn giá trị của chính nó . Đặc biệt là đối với công nhân lành nghề và chất lượng cao. Họ làm việc càng nhiều, mức lương càng cao mà nhà tuyển dụng đánh giá cao.
Giá trị lớn hơn trong hiệu quả kinh doanh được gọi là giá trị còn lại. Đây là điểm cơ bản nhất của lao động hàng hóa. Các nhà tư bản đã thu được những món lợi to lớn trong quá trình quản lý, định vị sản xuất và điều hành.
3.Thuyết hàng hóa lao động c. Tags thị trường lao động Việt Nam hôm nay:
Thị trường lao động:
“Thị trường lao động – chính là cơ chế mà người sử dụng lao động và người lao động tương tác với nhau trong một không gian kinh tế xác định, thể hiện các mối quan hệ kinh tế và pháp lý với nhau” (theo nhà khoa học kinh tế Nga Kostin Leonit Alecxeevich).
Hay cụ thể hơn, thị trường lao động là tập hợp các mối quan hệ kinh tế và pháp lý diễn ra giữa chủ sở hữu sức lao động (người lao động) và người sử dụng lao động (người sử dụng lao động). Nơi làm việc, hàng hóa và dịch vụ cụ thể sẽ được thực hiện ở đâu và ở đâu. Thị trường là nơi sản phẩm được mua và bán. Trong số đó, nhà tư bản phải cố gắng bán với giá cao để thu lợi nhuận khổng lồ.
Trong quá trình sử dụng sức lao động, sức lao động được hình thành trong sản xuất chứ không phải trên thị trường. Mọi người tham gia vào giai đoạn sản xuất để tạo ra các sản phẩm có giá trị từ nguyên liệu thô. Có lợi cho việc đáp ứng nhu cầu sử dụng và đảm bảo tiêu thụ của thị trường.
– Người nắm giữ sức lao động sẽ có cơ hội tìm được việc làm mà mình có thể làm được. Việc được thuê làm công nhân phụ thuộc vào chuyên môn thực tế. Thể hiện khả năng, và có thu nhập để tái sản xuất sức lao động của mình. Tiền lương được rút ra từ đó, về cơ bản là tiền để mua hàng hóa và sức lao động.
– Đối với người sử dụng lao động sẽ có cơ hội gia tăng lợi nhuận kinh tế. Giá trị thặng dư thu được do bán sản phẩm của quá trình lao động với giá cao.