1. Khái niệm thơ
Thơ (hay thơ, trường ca) là một hình thức sáng tạo văn học phản ánh đời sống, với những cảm xúc hàm súc và súc tích, giàu quan niệm nghệ thuật, giàu sức tưởng tượng, ngôn ngữ giàu sức biểu cảm, giàu hình ảnh và đặc biệt là tính nhịp điệu.
Thơ là hình thức nguyên thủy của văn học. Bên cạnh thần thoại sơ khai chủ yếu tồn tại dưới hình thức tế lễ, hội hè, các hình thức văn học sơ khai như sử thi, hò vè, trữ tình chính là thơ ca, tức là ngôn ngữ có nhịp điệu. Trong nhiều tác phẩm văn học, trong đó có văn học Việt Nam, thơ ra đời trước văn xuôi rất lâu. Trong quá trình phát triển lâu dài của lịch sử, thơ ca đã hình thành nhiều thể loại, từ những bài hùng ca dài hàng chục nghìn câu cho đến những bài thơ rất ngắn chỉ hai, ba, bốn câu như: Tứ phương, Haiku. ..
2. Đặc điểm của thơ
Về nội dung, thơ là biểu hiện của những cảm xúc mạnh mẽ đã có ý thức. Chất trữ tình là đặc điểm nổi bật nhất của nội dung thơ. Đối tượng của thơ là sự hưng phấn tinh thần. Nhiệm vụ chính của thơ là đánh thức nhận thức về sức mạnh của đời sống tinh thần và tất cả những gì lay động, lay động người đọc. Thơ không chú trọng miêu tả sự vật bên ngoài, không kể đến sự việc đã xảy ra mà hướng đến bộc lộ nội tâm, tình cảm, cảm xúc của con người trước sự việc, giúp ta hiểu rõ hơn về nỗi lòng của chủ thể. Ví dụ như các bài học đánh trống của Văn Xương:
Suốt quãng đời còn lại, tôi chợt nhớ về miền xa xăm tuổi thơ, bước chân nhỏ qua cánh đồng, tiếng trống trường thúc giục mùa thi mới nhất, sau bao nhiêu năm rồi bạn bè ơi, bạn đang ở chỗ nào? ? Khi bạn nghe thấy tiếng trống, tại sao bạn không tập trung trước khuôn viên trường và nắm tay nhau? Tại sao chúng ta không thể ngồi cùng bàn như trước, hồi hộp nhìn bảng đen trắng, để ánh mắt thoáng qua một tia ngây thơ, tại sao bao nhiêu năm qua chúng ta không tìm đến nhau, cùng nhau học nấu ăn, lại ngồi xuống nghe Trên đĩa có tiếng cười nói của trai gái sao không về thăm thầy xưa ôi đã bao lần học mấy tiếng trống này cho tóc mau bạc…đời no đủ rồi Tôi sẽ nhớ miền xa xăm của tuổi thơ, Cho đến không biết bao lâu tiếng trống trường vẫn thúc giục mùa thi.
Bài thơ là dòng cảm xúc của con người, từ nay đến khi học trò mộng mơ. Cánh đồng, tiếng trống, mùa thi, khuôn viên, lớp học, bảng đen, phấn trắng, mái tóc thầy cô bạc trắng, những bữa cơm đầy ắp tiếng cười… tái hiện lại cuộc sống tuổi thơ nơi “phương xa”. Tiếng trống trường như chạm vào hoài niệm về quá khứ, khơi gợi hoài niệm, bồi hồi về những kỉ niệm, hoài niệm ta từng gắn bó.
Thơ vì thế là một biểu hiện của cảm xúc mạnh mẽ. Nó đòi hỏi nhà thơ một cú sốc nội tâm mạnh mẽ, sự tra tấn và cú sốc tinh thần buộc tác giả phải sống sâu trong thế giới nội tâm của mình. Không có tình cảm chân thành và sâu sắc, nhà thơ không thể làm thơ, và bức tranh chỉ có thể gieo vần. Lê Quý Đôn từng nói: “Ta cho thơ ba điều chính: một tình, hai cảnh, ba điều”. Không có tình cảm mãnh liệt, bằng trí tưởng tượng khó có thể viết nên một bài thơ chân thành, gây xúc động cho cả trẻ em và người lớn:
Lớp một! Lớp một! Bạn đã được chào đón vào năm ngoái, bây giờ là lúc để nói lời tạm biệt và tiếp tục! xin chào cửa sổ bảng đen xin chào tất cả chỗ ngồi quen thuộc! Xin chào ở lại và đón một chút. Chào cô giáo thân yêu, cô sẽ xa chúng tôi…hãy làm theo lời cô và cô sẽ luôn ở bên cạnh cô. Lớp một! Lớp một! Bạn đã được chào đón vào năm ngoái, bây giờ là lúc để nói lời tạm biệt và tiếp tục!
Cảm xúc mãnh liệt là yếu tố quan trọng để nhà thơ viết nên những vần thơ có sức ám ảnh, lay động. Nhưng thơ không phải là sự bộc lộ cảm xúc một cách bản năng, trực tiếp. Cảm xúc trong bài thơ là cảm xúc tự giác, thăng hoa, được lắng đọng trong cảm xúc thẩm mỹ, gắn liền với niềm vui được biết mình, biết đời. Đó phải là một tình cảm cao cả, một tình cảm cao đẹp, đầy tính nhân văn và chính nghĩa. Những cảm xúc tầm thường không làm nên thơ, thậm chí còn giết chết nó.
Điều này không có nghĩa là tác phẩm trữ tình không liên quan gì đến hiện thực khách quan, mà thể hiện những suy nghĩ và cảm xúc của tâm hồn. Tác phẩm trữ tình cũng tái hiện các hiện tượng đời sống, như miêu tả trực tiếp phong cảnh thiên nhiên hoặc tường thuật các sự kiện tương đối liên tục, như sự vắng mặt của mẹ Đặng Hiền vào ngày bão tố, chuyến đi học của Minh Chính, việc lênh đênh trên hồ. tam trụ của đế vương v.v… nhưng sự tái hiện này không mang mục đích riêng mà tạo điều kiện để chủ thể bộc lộ cảm xúc, chiêm nghiệm, suy nghĩ. Ở đây, nguyên tắc chủ quan là nguyên tắc cơ bản của sự chiếm hữu hiện thực và là yếu tố cơ bản quyết định đặc trưng bản chất của tác phẩm trữ tình. Vì vậy, trong một tác phẩm bao giờ cũng có hai tầng nội dung: một là nội dung của bức tranh đời thực, hai là nội dung của những tư tưởng, tình cảm, tư tưởng ẩn sau bức tranh (người ta thường gọi là cảnh và tình, sự kiện, v.v.) và tình yêu). Chẳng hạn, trong những bài thơ du hành của con ong của Nguyễn Du Mậu, qua vẻ đẹp kỳ thú của thiên nhiên, qua sự cần cù, không ngừng nghỉ, tìm tòi không ngừng, bức tranh cuộc sống hiện lên thật cụ thể, sinh động. The Bee’s Journey – Hành trình của sự kiên trì và sáng tạo. Những tâm tư, tình cảm, suy nghĩ ẩn chứa sau bức tranh hiện thực này là: hành trình kiên nhẫn, không ngừng nghỉ của chú ong, tượng trưng cho sức sáng tạo kỳ diệu, sự đánh đổi thời gian và cuộc sống của con người (đặc biệt là người nghệ sĩ) nhiều năm về trước.
Về hình thức, thơ được thể hiện bằng những biểu tượng, tư tưởng và bằng những cấu tứ thơ đặc biệt. Câu cách ngôn cụ thể trong câu thơ cũng khiến nó có khả năng trở nên mơ hồ. Có thể nói, thơ là nghệ thuật của biểu tượng – những yếu tố tạo nên phẩm chất hội họa của thơ. Mỗi thể loại thơ có một kiểu kí hiệu riêng. Mặt trời, mặt trăng, tùng, cúc, lan, trúc, sen trong thơ cổ… bờ ao, giếng, bến, chiêng, khăn, đèn… trong ca dao; cờ đỏ, máu đào, bàn chân, tay súng, đường đi, và mặt trời… trong thơ cách mạng; lãng mạn Trái tim, đôi môi, hương, vai, tiếng chim hót, khu vườn, đôi mắt trong thơ…; trời xanh, đàn cò, đất, trống trường, sân chơi, lớp học, chiếc khăn quàng đỏ, cánh buồm, góc sân, bầu trời…vv trong thơ thiếu nhi. Ý tưởng của các tác phẩm rất rộng và khơi dậy người đọc suy nghĩ.
Tính đặc sắc của ngôn ngữ thơ thể hiện trước hết ở nhịp điệu. Việc chia dòng nhằm tạo nhịp điệu cho bài thơ. Cuối mỗi dòng thường là một điểm dừng. Tùy theo số chữ (âm thanh) trong các câu thơ mà các bài thơ có nhịp điệu khác nhau, phù hợp với các cung bậc cảm xúc khác nhau. Ngôn ngữ thơ cũng không có tính mạch lạc, phân tích như ngôn ngữ văn xuôi mà thay vào đó là tính nhảy vọt, tạo nên những khoảng lặng giàu ý nghĩa. Ví dụ:
Nếu nhắm mắt trong khu vườn lộng gió, bạn sẽ nghe thấy nhiều tiếng chim hót hay những chú chim sâu trong kẽ lá cất tiếng hót véo von. Nếu bạn nhắm mắt lại và lắng nghe câu chuyện của cô ấy, bạn sẽ thấy các nàng tiên nhìn thấy cậu bé đi bảy dặm, trái cây rất thơm và cô ấy rất dịu dàng. Nhắm mắt lại nghĩ về cha mẹ nuôi con từng ngày, nắm tay con sớm tối cố nhắm mắt rồi lại mở. (nói với tôi đi, đoàn múa)
Sự kết hợp giữa không gian, bối cảnh và cảm xúc trong ba phần thoạt nhìn có vẻ lỏng lẻo, chưa có sự liên kết chặt chẽ. Ở phần đầu, tác giả đặt các em vào khung cảnh thiên nhiên trong trẻo, thanh bình, đầy ắp những âm thanh tươi đẹp. Ở khổ thơ thứ hai, thế giới thiên nhiên kì diệu nhường chỗ cho không gian cổ tích thần kì của con người. Phần cuối cùng là cuộc hành trình vào tâm linh, vào hoài niệm, vào không gian khép kín hàng ngày. “Nếu Nhắm Mắt Nhắm Mắt” là một giả định hấp dẫn mà tác giả đặt ra về nhân vật trữ tình tạo nên chất keo gắn kết cả ba phần lại với nhau. Nhắm mắt lại, tập trung tư tưởng, vận dụng trí tưởng tượng, để tâm hồn nhẹ nhàng, rộng mở, cho mình cơ hội để soi xét lòng mình một cách sâu sắc, để có thêm sự đồng cảm và biết ơn, thêm tình yêu thương và công lao to lớn của cha mẹ, người thân dành cho mình.
Thơ xuất phát từ cảm xúc thật của nhà thơ. Chính những cảm xúc chân thật ấy đã làm cho thơ có hồn, có hơi thở và có sức sống. Chính không khí ấy đã góp phần tạo nên nhạc điệu cho bài thơ với những âm thanh đan xen, trùng điệp, hòa âm nhịp nhàng và ngắt nhịp đầy sức gợi. Đặc điểm này có sức lôi cuốn mạnh mẽ người đọc và tạo nên toàn bộ sức mạnh. Điều này có thể thấy rất nhiều trong thơ thiếu nhi – một lĩnh vực thể hiện rất rõ sự hòa quyện giữa thơ và nhạc:
Mẹ tôi trồng những cây hoa, rau, lúa rất đẹp. Cây cha tôi trồng toàn cây đáng sợ, trên cây có gai và gai, trái sầu riêng chạm vào sẽ chảy máu, đầu sẽ rụng. Những cành gai đâm xuyên qua bưởi, sầu riêng, dừa… cho tôi bốn mùa ngọt ngào, hương ba loại cây trong vườn tuy rợn người nhưng trái nào cũng dễ thương. (Vườn của cha, nguyễn duy)
Những phát hiện độc đáo “khủng” và “khủng” trong vườn cây ăn quả của bố để lại ấn tượng đặc biệt cho người đọc. Âm nhạc nảy sinh từ những ngôn từ giản dị, từ cái nhìn rất ngây thơ nhưng rất cổ kính của trẻ thơ đối lập với ba cây với một cây, giữa hình thức và nội dung trong thế giới cây trái trên đời. The Garden of Three của Method khá độc đáo trong nghệ thuật đánh lừa người đọc…và chính điều này đã mang đến những cảm xúc bất ngờ, thú vị cho người đọc.
3. Thể loại thơ
Tùy theo những tiêu chuẩn khác nhau sẽ có những cách phân loại thơ tương ứng. Chẳng hạn, theo phương thức tổ chức thơ và thể hiện cảm xúc, người ta chia thơ thành các loại cơ bản sau:
Thơ trữ tình: là thể loại thơ bày tỏ quan điểm chung về con người, cuộc đời, thời đại bằng cách bày tỏ những cảm xúc riêng tư, cá nhân về cuộc đời. Đây là thể loại chính của thơ.
Thơ tự sự: là thể loại thơ bày tỏ cảm xúc về cuộc sống thông qua hệ thống nhân vật và cốt truyện. Văn thiếu nhi, thơ cổ tích (Phan Thị Thanh Nhan), truyện cổ tích về bản chất con người (Chun Quỳnh), khách đón giao thừa, sự tích đèn lồng trung thu, chuyện rùa bay (Nguyễn Hoàng Sơn), Ông thương thả diều (nguyen bui wii)… Tiêu biểu cho thể thơ này.
Thơ có nhịp: Là thể thơ có yêu cầu khắt khe về hình thức, ngôn ngữ, nhịp điệu. Thất ngôn, tứ tuyệt, lục bát… là những thể thơ tiêu biểu của thể loại này.
Thể tự do: là hình thức đối lập của thể thơ. Phá vỡ mọi hình thức xiềng xích và tự do bày tỏ suy nghĩ và cảm xúc của bạn. Có thể thấy điều này trong các bài thơ về mưa (Trần đăng khoa), cánh buồm (hoàng trung trung), emili, con trai… – trên dòng sông lớn (quang huy), nếu trái đất thiếu con (đỗ trung lai) v.v… .
Thơ văn xuôi: Là thể loại thơ viết bằng lời, vừa mang đặc điểm của thơ, vừa mang đặc điểm của văn xuôi. Nó sử dụng hình thức ngắn gọn của văn xuôi để thể hiện nội dung thơ ca. Ví dụ bài thơ của mẹ là cô của con Lê phương hiền:
“Đẩy trăng vàng qua sông Bàn tay mẹ gầy câu ru bồng bềnh Tuổi thơ tôi êm đềm mi mắt ướt chờ bóng con đò nhỏ Mái chèo êm êm, và dòng sông êm đềm Con vẫn thao thức Trông trăng tìm dáng mẹ Con hạc gầy nhớ thương Sau mùa nước lũ, tình quê đã khá hơn Khi ánh trăng làm dịu khung cỏ gầy Kể từ khi rồi em đã nghe gió hát Trong hơi thở mùa thu còn Giấu nụ cười em Ẩn giấu điều gì trong trái thơm Rồi một mai em lớn lên Vẫn nhớ tiếng sóng vỗ bờ cát. Trên dấu chân mẹ còn hằn vết năm tháng gian khổ, khi biết được bí mật này, tôi chợt rưng rưng trong lòng: dì có phải dì không?”
Một tiêu chí khác là đặt tên các thể thơ theo số chữ trong một dòng. Ví dụ, năm câu là thơ năm chữ, bảy câu là thơ bảy chữ, hai câu là thơ bảy chữ, một câu là thơ sáu chữ, tám câu là thơ bảy chữ, v.v. .
(Nguồn tham khảo: Bùi Thanh Truyền, SGK ngữ văn 1)