kỲ i
trên tờ báo l’avenir du tonkin (tương lai của phương bắc, ấn bản ngày 25 tháng 2 năm 1932) đã viết về những thành tựu của trường cao đẳng mỹ thuật Đông Dương sau năm năm hoạt động đầu tiên, trong cuộc triển lãm ở Đông Dương school of Fine Arts International Paris 1931: “… những người tham gia triển lãm đã đạt được kết quả đáng kể vì lợi nhuận từ việc bán tranh lên tới khoảng 60.000 franc, trong khi chỉ có một sinh viên là ông. nguyen phan chanh, huy động được 20.000 franc từ tranh lụa. Cần lưu ý rằng thời điểm hiện tại đặc biệt khó khăn và trong thời điểm khó khăn như hiện tại, bán được 60.000 franc tranh là một kết quả tốt … triển lãm của trường học ở London. Triển lãm đang mở cửa, nếu không có vấn đề gì … ở Paris, mọi người đang nói về trường phái nghệ thuật Đông Dương, và những người am hiểu nghệ thuật rất hào hứng thảo luận về tài năng độc đáo của ma nguyens. cái chính, núi nam, lê. đó là điều cần ghi nhớ. ”
1. dòng thời gian bắt đầu
kỹ thuật sơn dầu của châu Âu, trong đó van eyck được coi là nhà phát minh – về bản chất, nó là sự kế thừa của một kỹ thuật chuyển tiếp đã được biết đến từ thế kỷ 11, nhưng cho đến thế kỷ 14 thậm chí còn ít phổ biến hơn.
Do đó, phát minh của van eyck về mặt sâu sắc, đúng hơn là một “tính toàn vẹn”, dẫn đến một định nghĩa lịch sử cuối cùng về cái gọi là “sơn dầu”. ”- với tư cách là một thể loại, với cả một hệ thống khái niệm được gắn liền. .
theo các nhà sử học nghệ thuật phương Tây, ngày phát minh của van eyck là vào khoảng năm 1410.
… ở nước ta, nếu xác định được chính xác thời điểm ra đời của tranh sơn mài là năm 1932 (năm xuất hiện “phát minh” tranh lụa) thì đó là thời điểm ra đời của tranh lụa. có thể được xác định chính xác không?
* * *
mọi người đều biết rằng người Trung Quốc là những người đầu tiên trên trái đất vẽ trên lụa, ngay cả trước khi họ tìm thấy giấy. Tranh lụa Trung Quốc đạt đến đỉnh cao vào thời nhà Đường và nhà Tống, tức là cách ngày nay hàng nghìn năm.
Là một quốc gia nằm trong khu vực văn hóa Đông Á, về hội họa, chúng ta đã có một thời gian dài hầu như không có gì để so sánh với người Trung Quốc, ngoại trừ một vài dòng “tranh dân gian” (nếu bạn chấp nhận quan niệm này), đặc biệt là tranh đồng ho, chỉ có thể kể là từ thế kỷ 17. “Việc tồn đọng” này đến nay vẫn chưa được giải quyết thỏa đáng.
lý do ra đời, cũng như nét độc đáo của tranh lụa Việt Nam thời kỳ đầu, dường như đã được học giả người Pháp claude mahoudot làm sáng tỏ một cách “gián tiếp” bằng cách giải thích kép về những tác động bên ngoài: “thật thú vị và Điều quan trọng cần chỉ ra là nhờ người Pháp và sau khi tiếp xúc với hội họa châu Âu, người Việt Nam đã biết và hiểu về hội họa vĩ đại của Trung Quốc “(” indochine “, số 171, ngày 9 tháng 12 năm 1943).
Theo đánh giá của Nguyễn Tư Nghiêm, một trong những cái công lớn nhất đáng để thừa nhận của Trường Cao đẳng Mỹ thuật Đông Dương, đặc biệt của ông Victor Tardieu, người sáng lập ra Trường năm 1925- chính là đã hướng Nguyễn Phan Chánh vào nghệ thuật vẽ tranh lụa.
trong tiểu luận “bước đầu của hội họa Việt Nam hiện đại” (đăng trên tạp chí “xuân thu nha tập” năm 1942), ông ngọc văn nhớ lại:
“… sự tiếp xúc của trường nghệ thuật với công chúng bắt đầu với cuộc triển lãm đầu tiên vào khoảng năm 1928-1929 (chính xác là tháng 11 năm 1929- h.t.h), trong chính trường nghệ thuật. có những bức tranh ‘cô gái xõa tóc’ với khuôn mặt buồn bã bên lê phố, có bức tranh ‘thiếu nữ ngồi trên mỏm đá’ với đôi mắt ướt như sắp khóc của mai trung thu. Có những bức tranh “người già” mềm mại của Lê Thị Pou, những bức tranh cánh đồng nâu nặng trĩu của Nguyễn Phan Chánh (đây đều là tranh sơn dầu, H.T.H.). tranh trên lụa chưa ra đời (gạch chân h.t.h) ”.
vào năm 1931, tại dou chieu paris, một loạt các bức tranh lụa “sơ khai” của Nguyễn phan chánh đã đạt được thành công lớn. Và lịch sử cũng coi ông là một trong những thành công đầu tiên và quan trọng nhất của nền mỹ thuật Việt Nam thế kỷ 20. Vì vậy, Nguyễn Phan Chánh hiển nhiên được công nhận là họa sĩ bậc thầy mở đường cho nền mỹ thuật Việt Nam. “Dat” trong những bức tranh nổi tiếng của ông, không rõ tại sao lại được gán cho hai năm: “1930-1931”, vô hình chung, cũng đã trở thành ngày chính thức bắt đầu vẽ tranh trên lụa.
cái này cũng “có vẻ” rất hợp với bộ lịch nghệ thuật của nguyễn phan chanh, vì nó nói: ông mới bắt đầu “vẽ trên lụa yunnan” từ năm 1928 …
Tuy nhiên, gần đây, có một số chứng cứ mới tìm lại được sẽ cho chúng ta một cái nhìn đầy đủ hơn, toàn diện và sát với thực tế hơn về sự mở đầu của hội họa lụa.
đầu tiên, theo các tài liệu của mr. ngo kim khoi, nhà nghiên cứu độc lập, cháu nội họa sĩ nguyễn nam sơn, ông lão vẽ bức tranh lụa “đi chợ” vào năm 1927, nhưng chưa khẳng định được đó có phải là bức tranh lụa cổ nhất của cụ hay không?
sau đó, nếu mr. Nam Sơn chưa (hoặc chưa) được công nhận là người sáng tạo ra tranh lụa Việt Nam (như Nguyễn phan chanh), thì ít nhất ở nước ta, có lẽ ông vẫn là “người đầu tiên” đặt tiền đề cho câu chuyện hình thành và Sự phát triển của nghệ thuật vẽ tranh trên lụa Ngay từ năm 1930, ông đã xuất bản cuốn sách do ông viết bằng tiếng Pháp mang tên “la peinture chinoise” (hội họa Trung Quốc), với ý tưởng chủ đạo: thiên nhiên – cội nguồn “vĩnh hằng và vô tận” của các họa sĩ. Cuốn sách cũng thể hiện sự chủ động, ý thức rất rõ ràng của các họa sĩ Việt Nam đối với cội nguồn châu Á của mình, ngay cả khi họ đang học tập và tiếp thu những bài học mỹ thuật trong môi trường giáo dục của Pháp.
thứ hai, ít nhất hai bằng chứng đã được tìm thấy để chứng minh điều đó: Nguyễn phan chanh đã có ngay một số bức tranh lụa là tác phẩm thật (nếu không phải là chủ nhân). kể từ năm 1929, tức là chỉ một năm sau khi ông bắt đầu “hành nghề trên lụa”. trong hai bức tranh trên lụa này, đáng kể nhất là bức “le repas / bữa”, vì thực chất đây là một trong những bức tranh trên lụa của Nguyễn phan chánh đã được trưng bày và mua tại triển lãm trưng bày ở Paris 1931 (hiện chỉ còn thấy trong một bản in của tờ báo nhiếp ảnh Pháp “l’illustration”, số 4608, ngày 27 tháng 6 năm 1931, với chú thích rất rõ ràng là ngày: 1929). còn lại là một “cửa hàng ốc” (được bán với giá 600.000 USD tại cuộc đấu giá quốc tế của christie ở Hồng Kông vào ngày 27 tháng 5 năm 2018).
Từ đây, chúng tôi có cơ sở để thay thế ước tính ban đầu của tranh lụa Việt Nam là “1930-1931”, bằng cách diễn đạt cố định: 1929!
Điều đó cũng đồng nghĩa với việc năm nay, 2019 là năm kỷ niệm 90 năm tranh lụa Việt Nam ra đời và phát triển.
2. Tên gọi
về ‘chất liệu’, có lẽ cách đặt tên phổ biến nhất của một loại tranh là câu trả lời cho câu hỏi: “sur quoi et avec quoi?” (trên cái gì và bằng cái gì?), chẳng hạn như sơn dầu trên vải (tiếng Pháp: huile sur toile; tiếng Anh: oil on canvas).
Trong tiếng Pháp hoặc tiếng Anh, để chỉ tranh sơn dầu, bạn cũng có thể nói đơn giản: huile, oil (nói chung), hoặc: toile, canvas (trong trường hợp vẽ trên canvas). đối với những bức tranh thông thường vẽ trên giấy, bằng tiếng Pháp hoặc tiếng Anh, người ta thường nói đơn giản: aquarelle hoặc watercolor (màu nước), gouache (bột màu), pastel (bút chì sáp), v.v.
đặc biệt với tranh trên lụa (tiếng Hán hoặc tiếng Việt), người Pháp thường gọi là: peinture sur soie (nghĩa: tranh trên lụa), hay chỉ ngắn gọn: soie.
Gần đây, sự nhầm lẫn về cái gọi là “tranh lụa”, thường là không chính xác, chắc chắn bắt đầu nảy sinh do nhu cầu dịch từ “tranh lụa” sang tiếng nước ngoài.
Nào là: màu nước trên lụa (aquarelle sur soie, watercolour on silk); nào là: màu bột trên lụa (gouache sur soie, gouache on silk); nào là; mực trên lụa (encre sur soie, ink on silk), thậm chí có lúc đi đến tắc tị: màu trên lụa (couleurs sur soie, colours on silk)… – cứ như thể người ta nắm chắc lắm, nắm tất cả những gì người họa sĩ đã dùng để vẽ. Mà nếu cứ cho là như vậy- thì với các màu tự nhiên, chẳng hạn như các màu ngả nâu vàng chín nục do người vẽ nhuộm, phun bằng nước chè, nước vối thì người ta có tính được hay không?
có lẽ chúng ta nên gọi tranh lụa đơn giản là … “tranh lụa” hoặc “lụa” (dịch sang tiếng Pháp hoặc tiếng Anh là: peinture sur soie, tranh lụa, hay ngắn gọn hơn: soie, lụa) như tên gốc của nó. trong trường hợp đặc biệt có thể viết, ví dụ: lụa (với acrylic) hoặc lụa (với acrylic).
Cần lưu ý rằng lụa không chỉ đơn giản là nền (hỗ trợ), mà lụa còn là bề mặt, một phương tiện trưng bày và thể hiện quan trọng của tranh lụa. Để thể hiện một bức tranh lụa, chúng ta có thể không cần trả lời câu hỏi “avec quoi” (với cái gì), nhưng đối với câu hỏi “sur quoi” (vẽ trên cái gì), câu trả lời là bắt buộc.
3. k ỹ thuật
tranh trên lụa ban đầu thuộc về tranh thủy mặc (peinture à l’eau), được vẽ bằng chất và màu pha với nước. Người họa sĩ có thể chỉ cần sử dụng mực, màu thảo dược tự nhiên, màu nước hoặc bột màu để vẽ tranh lụa, hoặc kết hợp linh hoạt với các chất tạo màu khác như ruốc, phấn màu, chì màu, v.v. cũng có những người vẽ tranh trên lụa bằng tempera, dầu (như trường hợp phở lê), và gần đây là acrylic (như bui tien tuan)…
Nhìn chung, các sắc tố có đặc tính ‘bao phủ’ và ‘bám chặt’ ít phù hợp hơn với lụa, chúng có thể mang lại hiệu ứng thiết lập nhanh, nhưng thiếu độ rõ nét, độ sâu và độ mịn. . Theo kinh nghiệm của Trần Văn Văn, những mảng lụa trắng ít nhiều vẫn nên có màu, kể cả với màu trắng, vì lụa không màu hoàn toàn sẽ là nguyên nhân gây nấm mốc.
Về nguyên tắc, bất kỳ loại lụa nào cũng có thể vẽ được, nhưng không phải loại lụa nào cũng phù hợp với tất cả các họa sĩ. Vào giữa những năm 30 của thế kỷ trước, một số họa sĩ, đặc biệt là Trần Văn Văn, rất thích vẽ trên lụa sồi, một loại lụa truyền thống thô, “sắc sảo”, chỉ có kích thước hạn chế (chỉ cỡ trên 40 cm một chút), và Không được trắng (muốn vẽ phải tẩy bằng nước ngâm đu đủ xanh). do đó, hầu hết các bức tranh lụa trên trần văn tự cổ đều có khung hình chữ nhật hẹp, xếp theo chiều dọc hoặc chiều ngang, nếu không thì cũng có kích thước nhỏ.
Vào những năm 1980 và 1990, lụa xám mịn, thô và hơi cẩu thả được sản xuất tại Đà Nẵng cũng là một sản phẩm được nhiều nghệ sĩ yêu thích. nó mang lại cho những bức tranh trên lụa những sắc thái rất lạ, đến mức nó gần như đã trở thành một yếu tố quan trọng trong phong cách vẽ tranh trên lụa của một số họa sĩ…
vẽ lụa, tất nhiên, lụa phải được căng trên một tấm phẳng để vẽ. Theo truyền thống Nguyễn Phan Chánh, cách phổ biến nhất là căng lụa trên khung gỗ bằng keo hoặc đinh mũ. hình thức này rất thuận tiện cho lối vẽ “trôi dạt”, nhưng trong quá trình vẽ lại, nó phần nào hạn chế việc kiểm soát hiệu ứng thực, trực tiếp, dễ bị chùng, thủng… các họa sĩ Việt Nam sống ở Pháp như mơ, Lê thị lựu, được vẽ trên nền lụa chỉ định (gần như vẽ trên giấy), nhưng lụa pha sẵn chỉ thích hợp với lối vẽ “khan”, thậm chí chỉ vẽ bằng phấn màu.
Còn một cách căng lụa nữa, gần đây: dán lụa lên bảng phóc-mi-ca trắng, vẽ rửa hay vẽ khan đều được, đặc biệt cho tranh khổ lớn. Vẽ xong bóc ra, biểu lên giấy dễ như thường.
Một trong những công đoạn đáng ngại nhất trong kỹ thuật vẽ tranh lụa là sự thể hiện, cái gia tăng. trước đây có nhiều chuyên gia phụ trách công việc này, bây giờ cũng có ít và thiếu tôn trọng.
Vì khó (nhất là phải biết bí quyết làm và kích cỡ bột) nên một số họa sĩ không cho vẽ hoặc vẽ tranh, họ chỉ cắt lụa đã vẽ sẵn, dán lên bảng rồi nhét vào. khung ảnh. kính. tranh lụa là điều tối kỵ nhất là trong thời gian phụ cấp, nếu đang diễn mà chẳng may mất điện thì coi như “xong việc”!
Thực ra, tranh lụa có độ bền không kém các loại tranh khác, nếu người họa sĩ vẽ đúng, thể hiện đúng và bảo quản đúng cách. Tất nhiên, điều kiện khí hậu, thời tiết cũng ảnh hưởng rất nhiều đến độ bền của tranh lụa mà không phải loại tranh nào cũng có.
Tranh lụa chữ Hán vẽ từ thế kỷ 8 trở về trước (Bảo tàng Cernuschi, Paris), hoặc một số tranh lụa thập niên 1930 của Nguyễn Phan Chánh, Lê Phổ, Tô Ngọc Vân, Trần Văn Vân, Lưu Văn Tội, luồng xuân nhi (trong bộ sưu tập của Pháp và Mỹ) trong tình trạng tốt. Ở nước ta, nếu tranh lụa bị hư hỏng, chúng ta không nên trách mọi người vì tranh lụa không đẹp, vì ngay cả với nhiều bức tranh sơn mài (vẽ bằng loại sơn truyền thống dùng để trang trí và bảo tồn), chúng ta cũng không thể giữ được như chúng ta. muốn.. .
ha thai ha
(kỲ ii: thời kỳ và họa sĩ)