Giới thiệu tổng quan về Vĩnh Long

1. Vị trí địa lý

Tỉnh Vĩnh Long là một tỉnh ở hạ lưu sông Cửu Long, nằm giữa Thiên Hà, Hậu Hà và trung tâm Đồng bằng sông Cửu Long, có ranh giới như sau:

Phía bắc và đông bắc giáp tỉnh Tiền Giang và Biển Chòi;

Phía Tây Bắc giáp tỉnh Đồng Tháp;

Phía đông nam giáp tỉnh Trà Vinh;

Phía Tây Nam giáp tỉnh Hậu Giang, tỉnh Sóc Trăng và thành phố Cần Thơ.

Tọa độ địa lý của Vĩnh Long là 9052’45 ” đến 10019’50 ” vĩ độ bắc và 104041’25 ” đến 106017’03 ” kinh độ đông.

Tỉnh Vĩnh Long có 8 đơn vị hành chính, gồm 6 huyện (Pinh Sin, Long Hà, Meng Thi, San Ping, Cha An, Yong Lim); thị xã Liming và thành phố Vĩnh Long có 109 xã, huyện, thị trấn (94 xã (5 thị xã và 10 huyện).

Với tổng diện tích tự nhiên là 152.017,6 ha, đứng thứ 12 trong 13 tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương Đồng bằng sông Cửu Long (lớn hơn Cần Thơ). Diện tích đất nông nghiệp là 118.918,5 ha, chiếm 78,23%; đất phi nông nghiệp là 33.050,5 ha, chiếm 21,74%. Trong đất nông nghiệp có 72.565,4 ha trồng cây hàng năm, chiếm 47,73% diện tích tự nhiên; chủ yếu là đất trồng lúa (71.069,2 ha); trồng cây lâu năm 45.372,4 ha, chiếm 29,85%; đất nuôi trồng thủy sản 942,2 ha, chiếm 0,62 %.

2. Dân số – lực lượng lao động.

Năm 2013, dân số trung bình của tỉnh là 1.040.500 (nam 513.400, nữ 527.600; thành thị 173.720, nông thôn 866.780, chiếm 6,8% dân số Đồng bằng sông Cửu Long và 1,4% tổng dân số. Mật độ dân số 684 người / km2, Thành phố Yonglong có mật độ dân số cao nhất là 2.934 người / km2 và thấp nhất là huyện Cha An 509 người / km2, dân tộc Kinh chiếm khoảng 97,3% và các dân tộc khác chiếm khoảng 2,7% (21.820 người Khmer, chiếm gần 2,1%). Có 4879 người Hoa và 216 dân tộc khác, có 48 làng nhỏ, 10 xã và 01 thị trấn thuộc 04 huyện Cha’an, Sanping, Liming Town và Yonglian; người Hoa tập trung ở Yonglong Thành phố và các thị trấn.

Có 630.195 lao động từ 15 tuổi trở lên (338.081 nam và 292.024 nữ; khu vực thành thị là 87.514 người và khu vực nông thôn là 542.940 người). 613.045 lao động trên 15 tuổi (89.902 ở thành thị, 523.143 ở nông thôn); 30.983 (5,05%) thuộc sở hữu nhà nước, 566.020 (92,33%) ngoài nhà nước và 16.042 (2,62%) sở đầu tư nước ngoài

3. Địa hình.

Địa hình của Yonglong khá bằng phẳng, độ dốc dưới 2 độ và độ cao khá thấp so với mực nước biển (độ cao tuyệt đối từ 0,6 đến 1,2m, chiếm 90% diện tích tự nhiên). Nhìn chung, chỉ có chiều cao trung bình của thành phố Yonglong và thị trấn Cha’an trong tỉnh là khoảng 1,25m. Đây là dạng địa hình đồng bằng ngập lũ cửa sông, tiểu địa hình của tỉnh có dạng lòng chảo ở giữa tỉnh cao dần theo hai hướng dọc theo các sông Thiên Hà, Houhe, Munti và sông chính, kênh đào. . Nhìn chung, địa hình của tỉnh phân bố dọc theo sông Thiên Hà và sông Hậu, thấp dần từ bắc xuống nam, chịu ảnh hưởng của nước mặn, lũ không lớn, có thể chia thành 3 cấp sau:

– Các khu vực có độ cao từ 1,0 đến 2,0m so với mực nước biển (37,17% diện tích) gần sông Hou, sông Tian, ​​sông Munti, Bờ sông và Kênh chính và đất đảo nhỏ giữa sông và khu vực tra trên vung liem khu vực đồi núi của khu vực.

– Khu vực có độ cao 0,4-1,0m (61,53% diện tích) phân bố chủ yếu làm đất trồng 2-3 vụ lúa cao sản, có nhiều tiềm năng tưới tiêu và năng suất cao. Khu vực phía bắc Quốc lộ 1al bị ảnh hưởng bởi mưa lũ vào tháng 8 hàng năm.

-Khu vực có độ cao dưới 0,4m (1,3% diện tích) là vùng trũng, ngập sâu.

Trong điều kiện địa hình như vậy, trong tương lai, khi biến đổi khí hậu toàn cầu sẽ ảnh hưởng đến toàn bộ đồng bằng sông Cửu Long, đặc biệt là tỉnh Vĩnh Long, biến đổi khí hậu 1m nước biển dâng sẽ bị ảnh hưởng bởi nhiễm mặn ở huyện Vũng Lắng và Cha An. ., khoảng 606 km vuông (gần 40% diện tích) ở miền Trung của tỉnh bị ngập, ảnh hưởng đến sản xuất nông nghiệp; hoạt động nuôi trồng, đánh bắt thủy sản ảnh hưởng đến cơ sở hạ tầng (hệ thống đường giao thông, công trình xây dựng, nhà ở …); ảnh hưởng đến sinh hoạt của người dân môi trường và hệ sinh thái địa phương.

4. Thời tiết – Khí hậu – Thủy văn

Thời tiết – khí hậu: Vĩnh Lũng nằm trong vùng nhiệt đới gió mùa, nóng ẩm quanh năm, nhiệt độ tương đối cao và lượng bức xạ dồi dào.

– Nhiệt độ: Nhiệt độ trung bình của tỉnh Vĩnh Long dao động trong các năm từ 27,3 ° C đến 28,4 ° C, cao nhất vào năm 2010. Nhiệt độ trung bình tháng năm nay cao hơn trung bình nhiều năm khoảng 0,4 ° C hoặc -1,0 ° C. Nhiệt độ cao nhất là 36,9 ° C, nhiệt độ thấp nhất là 17,7 ° C, chênh lệch nhiệt độ trung bình giữa ngày và đêm là 7,30 ° C.

Mức độ bức xạ của tỉnh tương đối cao, với ngày nắng trung bình là 7,5 giờ. Bức xạ quang hợp hàng năm đạt 79.600 cal / m2. Thời gian chiếu sáng trung bình hàng năm 2.550-2.700 giờ / năm. Nhiệt độ và bức xạ thích hợp là điều kiện để cây sinh trưởng và phát triển tốt

– Độ ẩm không khí trung bình từ 81-85%, cao nhất là 90% vào tháng 9 và thấp nhất là 74% (tháng 3 và tháng 4).

– Số ngày mưa trung bình trong năm từ 100 – 115 ngày và lượng mưa trung bình 1.300 – 1.690 mm / năm. Lượng mưa mùa khô xấp xỉ trên mức trung bình nhiều năm, trong khi lượng mưa mùa mưa xấp xỉ dưới mức trung bình nhiều năm. Nhìn chung, trong các tháng có mưa, lượng mưa tháng ở hầu hết các nơi trong tỉnh chỉ phổ biến từ 35-50%, thấp hơn so với trung bình nhiều năm.

Vĩnh Long nhiều năm qua không có thời tiết khắc nghiệt, mặc dù đã có lốc xoáy, lũ lụt, gió mùa sét đánh hoặc mưa trái mùa trên diện rộng ở một số nơi, do ảnh hưởng của áp thấp nhiệt. Khu vực biển Hoa Đông gây mưa kéo dài nhiều ngày.

Thủy văn: Tỉnh Vĩnh Long chịu ảnh hưởng của thủy triều bán nhật triều không đều trên Biển Hoa Đông, đi qua hai con sông lớn là sông trước và sông sau và sông. Sông Mekong, hệ thống kênh mương. Cụ thể:

– Sông co chien là một phụ lưu của sông Tiền, tổng chiều dài 90km, mặt cắt ngang trung bình 1.700m, độ sâu 7-10m, lưu lượng 1.814-19.540 mét khối / giây. .

– Sông Hậu là phụ lưu lớn thứ hai của sông Mê Kông qua Việt Nam, với tổng chiều dài khoảng 75 km và lưu lượng trung bình từ 1.154 – 12.434m3 / s.

– Sông Mang thit nối sông Tiền và sông Hậu, cửa sông Tiền lớn hơn cửa sông Hậu. Do ảnh hưởng của triều cường sông co chien và sông hâu, sông Mang Thít chảy theo hai hướng, nước chảy ra vào hai cửa sông, nhất là khi triều cường, nước từ thượng nguồn đổ về. hai cửa sông quới an và tra; Hai cửa sông thượng nguồn chảy ra, ngã ba hai ngả là Sandaod Sample (ngã tư của Seoul), cách sông Houhe 17 km. Sông Măng cụt không bị nhiễm mặn, có nước ngọt quanh năm, thuận lợi cho sản xuất nông nghiệp, công nghiệp và sinh hoạt của địa phương. Nhưng vấn đề thoát nước có thể khó khăn hơn do độ cao đất thấp hơn ở phần phía bắc của sông Mungate.

Mực nước và bề rộng triều của sông rất cao, cường độ triều mạnh, bề rộng triều vào mùa lũ khoảng 70-90 cm, bề rộng triều vào mùa kiệt dao động trong khoảng 114-140 cm, kết hợp với hệ thống. Hệ thống kênh mương nội đồng có khả năng tưới tiêu tốt, giúp cây trồng sinh trưởng và phát triển.

Thời tiết và khí hậu rất thuận lợi cho nông nghiệp, phát triển theo hướng làm đất nhiều hơn và trồng trọt tăng cường, phù hợp với sự phát triển của đa dạng sinh học tự nhiên. Tuy nhiên, do lượng mưa chỉ tập trung trong 6 tháng mùa mưa, cộng với lũ ở thượng nguồn sông Cửu Long đã hình thành nên các vùng ngập úng cục bộ, ảnh hưởng đến sản xuất nông nghiệp và môi trường. và môi trường sinh thái của khu vực.

Related Articles

Back to top button