Tranh in độc bản và thủ ấn họa

Các bản in đơn và vẽ tay

Lịch sử của các bản in độc đáo:

In độc đáo là phương pháp in trên giấy chỉ bằng cách sơn, đánh dấu, làm sạch … màu hoặc mực … trên bề mặt in không thấm nước như thủy tinh, mica, kim loại, v.v.

Cho đến ngày nay, vẫn còn nhiều ý kiến ​​khác nhau … các tài liệu lịch sử khác nhau về thời điểm công nghệ một bản in / một bản in ra đời. Tuy nhiên, nghệ thuật in nói chung cho thấy các bản in nguyên khối có niên đại từ bản in kim loại của nghệ sĩ người Đức Hercules Seghers (1589-1638) vào những năm 1620. Trên các tấm đồng, nghệ sĩ vẽ bằng tay và không lau sạch như đóng dấu, sau đó đặt giấy lên trên và sau đó in. Ông đã chỉ ra một số bức tranh từ dòng chữ và làm cho chúng khác nhau theo mục đích. Bản in thử của anh ấy đã tạo ra một bản in hoàn toàn khác. Mỗi bản sao là một bản in duy nhất, không có sự lặp lại về màu sắc và sắc thái. Kỹ thuật của ông gợi cho chúng ta nhớ đến phương pháp in đơn bản ngày nay (tiếng Anh gọi là monoprint). Bản in kim loại của Seghers là một trong những khám phá và thử nghiệm độc đáo và ấn tượng nhất trong lịch sử ngành in. Bản in của các bản in Siggs được thực hiện theo cách này rất hiếm, rất hiếm. Các họa sĩ còn sống của Rembrandt sở hữu rất nhiều bức tranh trong số đó, và chúng ảnh hưởng rất nhiều đến nghệ thuật của ông.

tranh in doc ban 1 Town with four towers, Hercules Seghers, 1631

Ngoài seghers, giovanni benedetto castiglione người Ý (1609-1670) cũng được coi là cha đẻ của in nguyên khối. Một phần của cộng đồng nghiên cứu tin rằng ông là nghệ sĩ đã tạo ra bản in nguyên khối thực sự đầu tiên. Phương pháp in của ông là sử dụng một con dao xỉn để vẽ các hình màu trắng sau khi lăn một lớp mực đen hoặc nâu mỏng trên bề mặt của một tấm đồng. Để có được những khối màu khác nhau, anh dùng cọ cứng, ngón tay, giẻ lau … đưa tấm đồng qua máy nén để có được bức tranh in độc đáo. Kỹ thuật in này cũng giống như những gì chúng ta làm ngày nay và được gọi là monotype trong tiếng Anh …

tranh in doc ban 2 Kopf eines bärtigen Orientalen, Benedetto Castiglione, 1655

Do đó, theo các ghi chép lịch sử trên, cả hercules seghers và benedettto castiglione đều là người khai sinh ra nghệ thuật in nguyên khối. Kỹ thuật in của seghers được gọi là monoprint và phương pháp in của castiglione là in monotype. Hai phương pháp in này vẫn được các nghệ sĩ sử dụng ngày nay và được coi là hai kỹ thuật in một – một in độc đáo. Để hiểu rõ hơn về đặc điểm của hai công nghệ này, xin tóm tắt lại như sau. Các bản in được tạo ra bằng kỹ thuật monoprint khác nhau về màu sắc, độ sáng và cấu trúc đồng đều, nhưng các đường nét hoặc hình ảnh (hoặc nhiều hơn) được lặp lại trên các bức tranh này. Sở dĩ có sự lặp lại này là vì những đường nét, hình ảnh (hoặc đường thẳng, hình ảnh) đó được ghi trên bản in hoặc có thể được tích hợp với bản in. Trong khi đó, kỹ thuật monotype tạo ra một bản in duy nhất mà không có bất kỳ hình ảnh hoặc dòng nào lặp lại. Với kỹ thuật này, mỗi bản in được vẽ hoặc cuộn (thường là tự phát hoặc hoàn toàn không có ý thức, theo một ý định đã định sẵn trong đầu) trên bề mặt in bằng cách sử dụng mực in tại một thời điểm. Như chúng ta đã biết, việc tạo hình ngẫu nhiên hay vô thức là không thể lặp lại.

Trước khi sách chuyên khảo trở nên phổ biến, họa sĩ người Anh cuối thế kỷ 18 William Blake (1757-1827) đã bắt đầu sử dụng in nguyên khối như một phương tiện chụp ảnh tự do. Anh trở thành một trong những nghệ sĩ hàng đầu quan trọng chuyên về sáng tác bằng kỹ thuật khung đơn. Blake sử dụng tempera để vẽ trên bìa cứng và các hình dạng, tạo ra chất lượng … và chất lượng nghệ thuật của bố cục, sau đó được in ra giấy.

tranh in doc ban 3 Tranh in độc bản của họa sĩ Edgar Degas

tranh in doc ban 4 Tranh in độc bản của họa sĩ Camille Pissarro

Sau khi Blake và thành công của anh ấy, quy trình in mà chúng tôi gọi là “in một lần” đã bị lãng quên. Mãi cho đến cuối những năm 1960, khi những người theo trường phái Ấn tượng trẻ tuổi bị cuốn hút bởi khả năng tạo ra những bức tranh đa sắc bằng mực, thì người ta mới bắt đầu quan tâm đến thử nghiệm “bôi bẩn” trên các bề mặt cứng. Lúc đầu, những thí nghiệm in ấn này dường như bị ảnh hưởng nặng nề bởi các kỹ thuật in ảnh trước đó: kết hợp các hình ảnh đen trắng và độ tương phản giữa chúng. Kể từ đó, các bản in nguyên khối đã được biết đến rộng rãi hơn và trở thành một phương tiện trực quan độc lập. Đặc biệt, nhiều họa sĩ và họa sĩ trường phái Ấn tượng ở Paris nói chung đã tạo ra những bức tranh ít nhiều bằng phương pháp in nguyên khối. Edgar Degas (1834-1917) sau đó được bạn của ông, họa sĩ và nhà điêu khắc Ludovic-Napoléon Lepic (1839-1889), giới thiệu về “in bột màu” (sau đó được gọi là in nguyên khối). Ludovic lepic hoạt động bằng cách lau, lau, gạt … bôi mực, sơn dầu lên kính, sau đó pha thêm các màu khác cho đến khi màu sắc đậm đà và hoàn chỉnh. bố cục và sau đó in ra giấy. Nhờ phương pháp của Lepic, Degas bắt đầu tạo ra các bản in trong sách chuyên khảo vào năm 1874. Vào thời điểm đó, ông đã tạo ra nữ diễn viên ba lê nổi tiếng của mình với Lepic. Kể từ đó, ông đã thường xuyên tạo ra các bản in độc đáo, cho ra đời khoảng 650 bức tranh, trong đó có nhiều tác phẩm có giá trị. Những năm cuối của thế kỷ 19 chứng kiến ​​sự bùng nổ của tranh in nguyên khối. Tranh in nguyên khối xuất hiện, với những tên tuổi lớn trong lịch sử nghệ thuật. camille pissarro (1830-1903) đã tạo ra một loạt các bản in độc đáo mang sắc thái Chủ nghĩa Ấn tượng-Biểu hiện. Paul Gauguin (1848-1903) đã phát triển kỹ thuật in của riêng mình. Anh ta vẽ một tờ giấy bằng mực hoặc sơn dầu, sau đó đặt một tờ giấy khác lên trên và vẽ bằng bút chì cứng hoặc que để mực bám vào tờ giấy phía trên. Kỹ thuật này đã mang lại cho Gauguin một bản in độc đáo, nhiều màu sắc. Sau Gauguin, Paul Klee (1879-1940) đã phát triển kỹ thuật này hơn nữa và tạo ra những bản in hấp dẫn. Kể từ đó, các bản in của các nghệ sĩ nổi tiếng đã được thực hiện rộng rãi hơn và thường xuyên hơn. Nghệ sĩ Pierre bonnard (1867-1947) đã in hàng trăm bản in đơn sắc trên các tấm thủy tinh và kim loại bằng tay hoặc trên con lăn. Từ Picasso, Chagall, Miró, Dubuffet, Matisse, đến nhiều nghệ sĩ đương đại tạo ra những bản in hiếm và độc đáo. Tính thẩm mỹ do in nguyên khối mang lại không thể tìm thấy trong kỹ thuật khắc hoặc sơn, ngay cả khi in nguyên khối (trên mặt phẳng in) được vẽ và in. Có thể xác định đó là một loại hình đẹp đặc biệt, chứa đựng sự tổng hòa của chất liệu hội họa, hình ảnh và nghệ thuật thể hiện của hội họa.

Tranh in bằng tay và độc đáo của Việt Nam

Chạm khắc gỗ là một loại hình nghệ thuật dân gian đã có từ lâu đời trên khắp châu Á, đặc biệt là ở Việt Nam. Ở châu Á, Trung Quốc và Nhật Bản là hai quốc gia rất mạnh về loại hình này. Đặc biệt là những đất nước phù tang với những cái tên như Hokusai (1760-1849), Hiroshige (1797-1858), Damo (1753-1806), Fengguang (1773-1828), Gaolongzhai (1735-1790) …

Ở Việt Nam, nghệ thuật chạm khắc gỗ (in khắc gỗ, khắc gỗ) là một trong những loại hình nghệ thuật truyền thống, có làng nghề nổi tiếng. Dòng trống East Lake. Vì vậy, dù nghệ thuật chạm khắc gỗ chưa trở thành nghệ thuật hàn lâm, nhưng cũng có trường hợp tác phẩm khắc gỗ đã vượt qua ngưỡng cửa dân gian và đi vào ngôn ngữ nghệ thuật dân gian hàn lâm. Ví dụ như tác phẩm chạm khắc gỗ của họa sĩ Chen Wencan và họa sĩ Du Duyan. Các bản in khắc gỗ của bộ đôi truyền tải ý tưởng và hình thức thẩm mỹ riêng của họ.

tranh in doc ban 5 Tranh trúc lầu Ngưng Bích của họa sỹ Tú Duyên

Một trong những đặc điểm của nghệ thuật chạm khắc gỗ dân gian là những người thợ thủ công dường như chỉ biết một ngôn ngữ duy nhất là kỹ thuật tạo mẫu, vì họ chưa từng học qua trường lớp và chưa biết ngoại ngữ nào. Nghề mỹ nghệ nào khác ngoài in, khắc gỗ, đặc biệt nghề của họ hầu hết được truyền từ đời cha sang đời con trai. Đôi khi họ sống trong các ngôi làng. Điều này chỉ có ở Việt Nam và các vùng của Trung Quốc.

Trong một thời gian dài, ngôn ngữ kỹ thuật của khắc gỗ vẫn là để in được nhiều màu, nghệ nhân phải khắc bảng in ở dạng “dương bản”. Mỗi bản khắc chỉ được sử dụng để in một màu. Mỗi bản sao được in cùng màu với màu tô. Dùng con lăn (rouleau) lăn trên giấy để tạo áp lực sao cho mặt dưới của giấy tiếp xúc (màu) đồng đều.

Cho đến khi có họa sĩ Từ Duyệt, ông đã sử dụng thành thạo kỹ thuật in khắc gỗ truyền thống, cải tiến kỹ thuật khắc và thao tác in, thể hiện màu sắc trên mảng. Tư duy mới về các loại hình in và kỹ thuật chế tác. Theo họa sĩ Trương Văn Ý (nguyên Hiệu trưởng Học viện Mỹ thuật và Trang trí Quốc gia Jiading), từ năm 1953, họa sĩ đã “vẽ tay” trên lụa (một cách gọi khác là nghệ thuật in độc đáo), hoàn thiện được làm bằng hai tấm gỗ, Một cho tâm điểm và một chỉ dùng để tô màu (dùng cọ vẽ lên gỗ). Sau đó, tranh được trưng bày bằng kỹ thuật in tay (handprinting) hay còn gọi là “in không lăn”. Sáng kiến ​​trên “trải nghiệm” quá trình nghiên cứu cho thấy.

Từ góc độ kỹ thuật, đặc điểm của “nghệ thuật in dấu tay” của họa sĩ Từ Duyệt bao gồm những nét mới và độc đáo sau: Thứ nhất: số lượng ấn bản ít, in nhiều màu. Thứ hai: Ông đã điêu khắc và sử dụng các hình chạm khắc “dương” (lồi) và “âm” (lõm). Sử dụng phương pháp khắc, sử dụng “âm bản” và “dương bản”, tác giả chỉ cần tiến hành khắc hai loại trên bề mặt dương bản trước khi in, một âm bản và một dương bản, và một phương pháp tô màu, tác giả đã có thể tạo ra một cách tinh tế. dấu tay. Như đã nói ở trên, đặc điểm đầu tiên của họa sĩ Từ Duyệt là ít ấn bản hơn, in nhiều hơn. Điều mà chưa ai làm được trước đây. Đó cũng là một biểu hiện của sự sáng tạo, nhưng cần sự cân nhắc kỹ lưỡng, chu đáo. Thứ ba: Tác giả thực hiện chuyển màu trên giấy trước, giống như nền vẽ bằng bột sò, nhưng tô màu nhạt, rồi in tiếp tiếp theo có “âm bản” hoặc “dương bản” tùy theo ý muốn của mình. Thứ tư: Sử dụng phương pháp in đè nên có sự sai lệch giữa in “dương” và in “âm”, và “vạch trống in lệch” là cố tình biến thành màu “chập chờn” chập chờn. Thứ năm: Về mặt “dương” (lồi lõm), tác giả tô vẽ và tô màu không đều tùy theo mục đích. Thủ thuật này khác với kỹ thuật cũ là bôi đều một màu lên bảng in. Thứ sáu: Tác giả dùng tay thay vì con lăn để xoa, cọ, ấn, thu và cho giấy có độ “ăn màu” khác nhau theo ý muốn.

tranh in doc ban 6 Tranh trúc xinh trúc mọc của họa sỹ Tú Duyên

Về đường nét và cách tạo mảng không gian gợi mở: Tính cách tạo hình trong tranh của họa sĩ Du Duyệt có những nét độc đáo riêng. Ông mô tả việc khắc bằng các đường nét uyển chuyển, thiên về các đường cong. Như vậy, các bức tranh của anh ấy gợi lên một cảm giác chuyển động độc đáo. Rất ít tác phẩm khắc của ông có điểm sáng hoặc tối rất lớn như các tác giả khác, nhưng ở ông, sự phân bố của màng và nét vẽ hòa quyện vào nhau. Đặc biệt, bản thân những mảng lớn trong tranh của anh gợi lên một không gian màu chập chờn, khi anh thay đổi màu sắc trên mảng chứ không tạo ra một mảng lớn chỉ một màu.

Về chủ đề sáng tác, anh ấy có một vị trí rất đặc biệt:

– Một là: sử dụng ca dao, chủ đề của ca dao để thể hiện trong các tác phẩm: “Có khi, chàng chăn bò qua cầu trong đêm Trung thu” hay “Chàng trai xuất thân nho nhã”, theo nghiệp tổ. của cánh cung. “hay” hồn kẻ sĩ, gió xôn xao, gương mặt chinh phụ trăng sáng ngắm “…

– Thứ hai: Lấy cảm hứng từ văn hóa dân gian và học thuật, cùng với lễ hội và âm nhạc dân gian, những chủ đề như hội họa thể hiện rõ nhất khuynh hướng sáng tác của anh ấy. Bạn có đau khổ trong cuộc sống? “,” Golden Man Joe “,” Lời khuyên học tập “,” Trầu cau và quả cau ăn trầu “,” Câu chuyện của Joe “,” Conqueror Ngâm “…

– Thứ ba là: lấy các anh hùng dân tộc làm chủ đề, sử dụng các tác phẩm tiêu biểu như: Chen Pingzhong, Fan Wulao, Ruan Cui, Li Lai, Ruan Hui, Pan Dingfeng, Pan Qingjia …

– Thứ tư: Sử dụng các chủ đề âm nhạc để có một thẩm mỹ sáng tạo và độc đáo. Ví dụ, các bức tranh nổi tiếng là: “dan nguyet” vv …

-Thứ ba: là nhóm tranh với chủ đề Jin Wenqiao, tổng cộng 51 bức tranh đã được nước ngoài mua để quay phim.

Sáng tác truyện tranh: truyện kiều

– Thứ sáu là: Cuối đời, vì mắt yếu, ông đã vẽ tất cả các bức tranh bằng bút lông màu đen trên lụa.

Nguyễn Thịnh Del, Giáo sư Học viện Mỹ thuật Quốc gia, Học viện Mỹ thuật Sài Gòn (tốt nghiệp Học viện Mỹ thuật Đông Dương, khóa 1928-1933) đã nhận xét về cách sử dụng bản in của họa sĩ Tử Duy như sau: ” Dấu tay tạo nên những bức tranh tuyệt đẹp khiến người xem cảm thấy mỗi lần khắc đều có những màu sắc khác nhau phù hợp với tâm trạng của bạn. Nó được tạo ra từ cảm hứng của người nghệ sĩ. Ai là nghệ sĩ? Anh ấy là một họa sĩ quyến rũ !.

Họa sĩ Du Du Yan là một họa sĩ già miền Nam trong cuốn sách nghệ thuật Ý do nhà xuất bản Milanese giới thiệu trong cuốn sách “Việt Nam”. Năm 1956, ông được giới thiệu trong cuốn sách “Việt Nam, ngày hôm qua và ngày nay” của UNESCO về văn hóa Việt Nam. Trước năm 1975, khi ông trùm dầu mỏ Mỹ Rockefeller vào thăm Sài Gòn, ông ta đã yêu cầu trần thường Ta thà làm quỷ phương nam còn hơn làm vua phương bắc.

Một số hình ảnh của Từ Duyệt:

tranh in doc ban 7 Lễ hội Làng, 1965

tranh in doc ban 8 Hãy thử một lá chầu, 1960

tranh in doc ban 9 Lần đầu, 1950

tranh in doc ban 10 Vua Lê Lợi, 1955

tranh in doc ban 11 Encouraging Study, 1965

tranh in doc ban 12 Tác phẩm Trần Bình Trọng, Khắc gỗ in trên lụa, kích thước: 90x50cm, năm sáng tác: 1965

tranh in doc ban 13 General Trần Hưng Đạo, 1965

tranh in doc ban 14 HS. Tú Duyên. Ông đồ nho. Lụa. Cỡ 12cm x 25cm. Vẽ năm 1974. Chữ ký đáy góc phải

tranh in doc ban 15 Work and Study, 1997

& gt; & gt; & gt; Khắc kim loại

& gt; & gt; & gt; Khắc là gì?

Related Articles

Back to top button