Tìm hiểu cụm di tích lịch sử Cầu Hiền Lương – Sông Bến Hải Quảng Trị

Cầu Xianliang và sông Binhai nằm ở giao điểm của Quốc lộ 1a và sông Binhai, phía bắc thuộc làng Xianliang, xã Vĩnh Thành, huyện Vĩnh Linh; phía nam thuộc làng Chunhe, thị trấn Zhonghai, huyện Turin, tỉnh Quảng Chí. Đây là hai “nhân chứng lịch sử” đã gồng mình trước nỗi đau chia đôi đất nước trong hơn 20 năm.

Sông Benhai bắt nguồn từ núi Dongchan trong dãy Trường Sơn và chảy từ tây sang đông dọc theo vĩ tuyến 17 đến cửa sông Gudong. Sông Bến Hải có tổng chiều dài gần 100 km, chỗ rộng nhất khoảng 200m, chỗ hẹp nhất khoảng 20-30m.

Tên ban đầu của sông Binhai là minh luồng. Khi vua Mạnh của nhà Minh lên ngôi, ông đã phải giáng tên vua do sự trùng hợp của chữ “Ming” (chữ “huy” đồng nghĩa với “kỵ”, có nghĩa là cấm kỵ). Vì vậy, cả tên làng và tên sông đều được đổi thành cây luồng. Sông Benhai còn được gọi là “bến đầu hói”, tiếng địa phương “đầu hói” có nghĩa là con sông nhỏ, bến hói được đọc khác là bến nước.

Cầu hiền được chính quyền Vĩnh Linh xây dựng vào năm 1928 để vận động nhân dân trong vùng đóng góp. Cầu lúc đó làm bằng gỗ, đóng cọc sắt, rộng 2m vừa đủ cho người đi bộ. Năm 1931, người Pháp làm cầu rộng hơn nhưng xe cộ qua sông vẫn phải đi phà. Năm 1943, cầu được nâng cấp và hiện nay các phương tiện cơ giới nhỏ có thể đi qua. Năm 1950, Pháp cho phép xây dựng cây cầu hiền bằng bê tông cốt thép dài 162m, rộng 3,6m, trọng tải 10 tấn. Hai năm sau, đề phòng địch tấn công lên phía bắc, quân ta đã phá bỏ cây cầu.

Tháng 5 năm 1952, Pháp xây dựng lại một cây cầu mới nối hai bờ sông Bến Hải giữa hai huyện vinh linh và giang linh. Cầu 7 nhịp, dài 178m, cột bê tông cốt thép, dầm thép, lát thông, rộng 4m, lan can hai bên cao 1,2m, tải trọng 18 tấn.

Năm 1954, sau thất bại Điện Biên Phủ, Hiệp định Genève được ký kết. Theo Hiệp định Giơnevơ, Việt Nam tạm thời bị chia cắt thành hai khu vực, lấy vĩ tuyến 17 (sông Tân Linh và Vĩnh Linh chạy qua) là ranh giới quân sự tạm thời. Cầu được chia thành hai phần, mỗi phần dài 89m và được sơn hai màu khác nhau. Bờ Bắc gồm 450 tấm trang trí và Bờ Nam gồm 444 tấm. Cuộc chia ly tạm thời tưởng chỉ kéo dài 2 năm và kết thúc sau cuộc tổng tuyển cử thống nhất, nhưng thực tế đã kéo dài 21 năm.

Năm 1956, Tổng thống Việt Nam Cộng hòa, Ngô Đình Diệm, với sự ủng hộ của Hoa Kỳ, đã không tiến hành một cuộc bầu cử để thống nhất đất nước theo quy định của Hiệp định Genève. Kể từ đó, cây cầu đã trở thành chứng tích lịch sử ngăn cách hai miền nam bắc trong hơn 20 năm. Cây cầu cũng đã chứng kiến ​​biết bao cuộc chiến đấu ngoan cường, anh dũng và trở thành biểu tượng cao cả cho khát vọng đoàn kết, sum họp, đoàn tụ của bao gia đình, dân tộc Việt Nam.

Có lẽ “đánh cờ” là cuộc chiến khốc liệt và khốc liệt nhất đã xảy ra trong 14 năm trong cuộc chiến ở Chùm Thánh. Từ khi có đường phân giới, chiều cao của cột cờ không ngừng tăng lên, vì cờ của ta không thể thấp hơn của ngụy.

Khi lá cờ đỏ sao vàng được giương cao, đồng bào hai miền nam bắc reo hò. my-phuy đã rất bất ngờ trước sự việc này. Họ vội vàng nâng cột cờ lên 35 mét.

Để tránh cột cờ của ta thấp hơn cột cờ của địch, năm 1962, Chính phủ đã cử Công ty lắp ráp máy Việt Nam đến gia công cột cờ, sau đó được chuyển đến Tây An và dựng lên. Cột cờ cao 38,6 mét và quốc kỳ đã được kéo lên. 134 mét vuông, trọng lượng 15 kg. Cách đỉnh cột cờ 10m có một ngôi nhà gỗ nhỏ để bộ đội ta thu dọn và treo cờ Tổ quốc. Đây là cột cờ cao nhất trên dây.

Trong nhiều năm liên tục, sau mỗi trận đánh, cột cờ bị gãy, lá cờ bị đạn bom xé nát, ngay lập tức được thay cột cờ mới, thay lá cờ mới. Từ năm 1956 đến năm 1967, 267 lá cờ với nhiều kích cỡ khác nhau đã được cảnh sát tiền tuyến treo lên.

Âm mưu ly khai của Mỹ ngụy cũng được thể hiện qua bức tranh vẽ cây cầu. Cầu Hsien Loong được người Pháp xây dựng lại vào tháng 5 năm 1952, có chiều dài 178 mét, 7 nhịp, cột bê tông cốt thép, ván thông, rộng 4 mét. Đường phân chia nam – bắc là vạch sơn trắng rộng 1cm làm vạch phân cách giữa hai khu vực. Hàng ngày, cảnh sát và nhân dân hai nơi canh gác, lần lượt qua lại.

Để tạo ra hình ảnh chia cắt đất nước mình, chính phủ Hoa Kỳ và Tây Ban Nha đã tích cực sơn màu xanh lam ở Nam bán cầu. Nhưng để “thống nhất núi sông”, ban ngày chúng chỉ sơn xong, ban đêm, công an ta sơn xanh một nửa cầu Bờ Bắc. Sau đó, họ cho người sơn lại cây cầu Nam bằng màu nâu. Bằng cách này, lời cầu nguyện của vị thánh luôn luôn thay đổi màu sắc. Bất cứ khi nào kẻ thù được sơn một màu khác để tạo ra hai màu đối lập, chúng tôi ngay lập tức sơn lại nó thành màu bình thường.

Sau khi Hiệp định Genève được ký kết, để giáo dục, động viên nhân dân đấu tranh thống nhất Tổ quốc, chúng tôi đã xây dựng hệ thống loa truyền thanh ở Bờ Bắc, phân bố thành 5 cụm với tổng chiều dài 1500 mét. Mỗi nhóm 24 loa công suất 25 watt, hướng về phía Bờ Nam.

Tức giận vì điều này, một vài tuần sau, my-diem được gắn vào một cụm loa South Bank do Tây Đức và Úc sản xuất, rất lớn, lớn và thậm chí lấn át loa của chúng tôi. Để “nói chuyện”, my-diem tung ra đòn tâm lý chiến nguy hiểm ở đất cảng. Họ nói chuyện từ 14 đến 15 giờ một ngày và hoạt động hết công suất vào một hoặc hai giờ sáng.

Cuộc kháng chiến kéo dài 21 năm Bên bờ Dịu là cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước của quân và dân ta. Hòa bình thống nhất đất nước, kẻ chết, người còn, nhưng chiến công của quân dân nơi biên cương đã được ghi vào sử sách. Cho đến ngày nay, khi đến với mảnh đất này, chúng ta vẫn có thể thấy một quá khứ hào hùng và vô cùng sống động hiện ra trước mắt. Vào tháng 12 năm 1986, các địa điểm xuyên eo biển đã được xếp vào danh sách các di tích văn hóa cấp quốc gia. Năm 2001, cầu Xianliang được khôi phục lại nguyên trạng theo thiết kế của cầu cũ, với tổng chiều dài 182,97m, tổng cộng có 7 nhịp.

Vào ngày 17 tháng 9 năm 2003, việc trùng tu và làm đẹp di tích lịch sử Cầu Hsien Loong chính thức bắt đầu. Vào tháng 3 năm 2014, cầu Xianliang đã được khôi phục lại trạng thái ban đầu với sơn mài màu xanh và màu vàng, trông rất sống động trong mắt chúng tôi.

Các di tích của các vị thánh ở hai bên eo biển bao gồm: Cầu Hsien Loong, sông Benhai, cột cờ ở bờ bắc, sân đình, đồn cảnh sát biên giới, loa phóng thanh và cụm tượng đài ước nguyện thống nhất ở bờ. Bảo tàng Song song thứ bảy …

Cột cờ hiện nay là mô hình cột cờ do chính phủ và quân đội nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa xây dựng trước đây. Cột cờ cao 28m, được nối với nhau bằng 6 ống thép. Trên đỉnh cột cờ là lá cờ đỏ sao vàng năm cánh. Trên thân cột cờ có gắn các thanh thép hình chữ nhật, có tác dụng làm thang. Cột cờ còn được trang bị hệ thống dây cáp, ròng rọc, tời để thuận tiện cho việc kéo cờ. Chân cột cờ có hình tròn, được trang trí bằng các hình ảnh mô tả lịch sử cách mạng.

Nhà (xã vinh thanh) trưng bày “Chặng đường 17 và khát vọng thống nhất” gồm 2 gian hàng. Không gian lễ đài là nơi đặt tượng đài Chủ tịch Hồ Chí Minh. Gian trưng bày 53 tư liệu, di vật văn hóa liên quan trực tiếp đến cuộc chiến đấu của quân và dân ta trên vùng bờ biển hiền hòa – bến cảng trong thời kỳ chống Mỹ, cứu nước.

Các tài liệu và hiện vật được chia thành 4 chủ đề: Hiệp định Giơnevơ và Đường phân giới tạm thời; Tinh thần bất khuất của nhân dân muôn đời và cuộc chiến đấu bảo vệ mặt trận; Nhân dân miền Nam tuyến 17 đấu tranh cho khát vọng thống nhất đất nước; Giải phóng năm 1972 Sau vĩ tuyến 17.

Đặc biệt, ở Bờ Bắc, còn có các phiên bản phục chế của loa 500w được chính phủ và quân đội Việt Nam Dân chủ Cộng hòa sử dụng trước đây. Chiêm ngưỡng diễn giả, du khách sẽ phần nào hình dung ra cuộc “thi diễn thuyết” hai bên bến cảng từ năm 1954 đến năm 1965.

Ở bờ nam sông có một tượng đài mang tên: Khát vọng Thống nhất non sông. Tượng đài có hình dáng một thiếu nữ đứng trên bờ Nam của bến, nhìn về hướng Bắc để nhớ lại những ngày tháng đau thương khi họ không thể qua sông để gặp chồng và những người thân yêu của mình.

Khu di tích bờ hiền hòa đã trở thành điểm tham quan không thể bỏ qua của du khách trong và ngoài nước. Du khách đến đây để hồi tưởng về thời kỳ đất nước bị chia cắt, tìm hiểu về sức mạnh của một dân tộc yêu chuộng hòa bình, ý chí và khát vọng giành độc lập tự do, có một đất nước Việt Nam tươi mới. đẹp như ngày nay.

Related Articles

Back to top button