Chủ nghĩa cơ hội và cuộc đấu tranh phòng, chống chủ nghĩa cơ hội hiện nay

chủ nghĩa cơ hội ra đời cùng với sự hình thành và phát triển của các phong trào cộng sản và công nhân quốc tế. Trong khoảng thời gian từ năm 1864 khi quốc tế thứ i được thành lập cho đến năm 1914. chủ nghĩa cơ hội của một số khuynh hướng, phe cơ hội như frudong, baculin đã trở thành lực lượng chính trị lớn trong các chính đảng quốc gia. ii.

Trong quá trình lãnh đạo cách mạng, các đảng cộng sản và công nhân quốc tế phải tập trung đấu tranh chống giai cấp tư sản và chủ nghĩa tư bản để đạt được mục tiêu cuối cùng là giải phóng giai cấp, giải phóng dân tộc, giải phóng xã hội, giải phóng con người, giải phóng con người. cuộc đấu tranh rất quyết liệt, phức tạp và lâu dài với một loại kẻ thù giấu mặt bên trong, ngụy tạo là chủ nghĩa Mác, chống lại chủ nghĩa Mác, phản bội phong trào cách mạng là chủ nghĩa cơ hội.

Vậy, chủ nghĩa cơ hội là gì? Theo từ điển bách khoa việt nam: chủ nghĩa cơ hội là hệ thống quan điểm chính trị không theo phương hướng, đường lối rõ ràng, không có chính kiến ​​xác định, thiên về lợi nhuận trước mắt. trong phong trào cách mạng vô sản, chủ nghĩa cơ hội là chủ trương thỏa hiệp, cải tạo và hợp tác vô kỷ luật, đi ngược lại lợi ích cơ bản của giai cấp công nhân và nhân dân lao động. thực ra, chủ nghĩa cơ hội có hai khuynh hướng chính: chủ nghĩa cơ hội cánh hữu ủng hộ chủ nghĩa cải lương và muốn “chuyển hóa” một cách hòa bình, chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội từ bỏ cuộc đấu tranh giành thắng lợi thực sự về tay giai cấp công nhân. Chủ nghĩa cơ hội của cánh hữu do Becstan và Causky tiêu biểu vẫn tồn tại trong các Đảng Công nhân Quốc tế II cho đến ngày nay. Bắt đầu từ nửa sau của thế kỷ 20, chủ nghĩa cơ hội cánh hữu nổi lên như một loại chủ nghĩa xét lại của cánh hữu. Chủ nghĩa cơ hội “cánh tả” là sự pha trộn giữa chủ nghĩa cực đoan và chủ nghĩa phiêu lưu, chủ nghĩa giáo điều, chủ nghĩa buông xuôi, chủ quan, sùng bái bạo lực, coi thường hoàn cảnh khách quan. chủ nghĩa cơ hội cả “hữu” và “tả” đều đẩy phong trào lao động đến chỗ hy sinh và thất bại vô ích [1].

Thực chất của chủ nghĩa cơ hội là trào lưu tư tưởng đối lập với chủ nghĩa Mác – Lê-nin, tàn dư của tư tưởng tiểu tư sản và tiểu tư sản trong phong trào cộng sản và công nhân quốc tế. đó là sự hy sinh lợi ích cơ bản lâu dài của giai cấp công nhân và dân tộc vì lợi ích trước mắt của một nhóm hay một lĩnh vực, là sự đầu hàng theo các trào lưu tư tưởng tư sản và sự phản bội lại chủ nghĩa Mác – Lê-nin. chủ nghĩa cơ hội tồn tại dưới nhiều hình thức biểu hiện: về lý thuyết thì đó là chủ nghĩa chiết trung, chủ nghĩa ngụy biện sẵn sàng thay đổi tầm nhìn tư tưởng cơ bản để trục lợi, về kinh tế nó thể hiện tư tưởng thực dụng sẵn sàng đấu tranh để thay đổi toàn bộ phong trào vì lợi ích trước mắt của một nhóm người. , về hành động là mạo hiểm, đôi khi bên trái, đôi khi bên phải, đôi khi vội vàng, đôi khi chủ quan sẵn sàng từ bỏ mục tiêu của động tác chạy. về thủ đoạn, chúng xảo quyệt, ranh ma, sẵn sàng lao vào mọi xu hướng khi có lợi.

Chủ nghĩa cơ hội là kẻ thù bên trong, nó tồn tại với nhiều đặc điểm và rất nguy hiểm, phá hoại đảng và phong trào từ bên trong. họ muốn chống chủ nghĩa cơ hội một cách có hiệu quả để bảo vệ chủ nghĩa Mác – Lê-nin. Tư tưởng Hồ Chí Minh, bảo vệ đảng, giữ vững bản chất cách mạng và khoa học của đảng, chúng ta cần nhận rõ nguồn gốc và sự phát triển, nhận diện chủ nghĩa cơ hội ở nước ta, đồng bộ các giải pháp đấu tranh chống chủ nghĩa cơ hội trong tình hình hiện nay.

Chủ nghĩa cơ hội là một hiện tượng xã hội lịch sử, xuất hiện trong cuộc đấu tranh giữa hệ tư tưởng tư sản và vô sản, giữa chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa tư bản. nên chừng nào cuộc chiến này còn tồn tại, thì chủ nghĩa cơ hội vẫn còn cơ sở.

Chủ nghĩa cơ hội có nguồn gốc từ mâu thuẫn giai cấp và cuộc đấu tranh giai cấp giữa giai cấp vô sản và giai cấp tư sản, giữa hệ tư tưởng vô sản và hệ tư tưởng tư sản, giữa chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa tư bản gắn bó mật thiết với những điều kiện khách quan và chủ quan là:

* theo các điều kiện khách quan.

– Do có sự kết hợp với lực lượng cách mạng, con đường vào đảng của các tầng lớp phi vô sản như nông dân, tiểu tư sản, trí thức, v.v. mục tiêu, lý tưởng của đảng và phong trào cách mạng dũng cảm từ bỏ lập trường giai cấp, đứng vững lập trường cách mạng của giai cấp công nhân, thực hiện lý tưởng cộng sản chủ nghĩa, đó là: giải phóng giai cấp, giải phóng xã hội, giải phóng con người. Tuy nhiên, trong quá trình cách mạng có một số người không vượt qua được tàn dư tư tưởng giai cấp của mình, nên khi cách mạng suôn sẻ thì những tàn dư tư tưởng đó bị đẩy lùi hoặc tạm thời bị che lấp, nhưng khi cách mạng gặp khó khăn, thử thách thì những tàn dư tư tưởng đó lại nổi lên. làm nảy sinh các khuynh hướng cơ hội, xét lại, cải lương, giáo điều, gây nhiều nguy hại cho đảng và phong trào cách mạng.

– Trong cuộc đấu tranh tư tưởng lý luận, các nhà tư tưởng tư sản, làm mọi cách để hệ tư tưởng của họ thâm nhập vào đảng cộng sản và phong trào cách mạng. kể từ năm 1950, usa! uu. đã hình thành chiến lược “diễn biến hòa bình” với mục tiêu giành thắng lợi về chủ nghĩa xã hội, không thông qua chiến tranh!

– Các thế lực thù địch thực hiện chính sách hai mặt đối với phong trào cách mạng, một mặt chúng dùng bạo lực để đàn áp, đàn áp phong trào, làm cho một bộ phận lực lượng cách mạng hoang mang, lung lay ý chí. hoài nghi, hoài nghi, do dự con đường mục tiêu, lý tưởng cách mạng, tư tưởng từ bỏ tư thế cách mạng, dấn thân đàn áp giai cấp tư sản. mặt khác, chúng dùng lợi ích kinh tế để mua chuộc, dụ dỗ, lôi kéo đào tạo những “công nhân quý tộc”, “tư sản mại bản”, thành những đảng viên thoái hóa làm tay sai cho giai cấp công nhân. giai cấp tư sản núp bên trong để chống lại đảng. và phong trào cách mạng.

* với các điều kiện chủ quan:

– Trong quá trình lãnh đạo, các đảng cộng sản và công nhân ở một số nước đã mắc sai lầm về đường lối, phương pháp tiến hành cách mạng, điều rất đáng ghi nhận là những sai lầm đó không được phát hiện hoặc phát hiện nhưng không kiên quyết sửa chữa, làm phát sinh để đến tình trạng bất ổn nghiêm trọng, kinh tế đình trệ, khủng hoảng, xã hội mất đoàn kết trong nội bộ đảng – đây là điều kiện, cơ hội cho các đảng phái chính trị. Các thế lực thù địch, phần tử cơ hội nổi lên chống phá đảng, chống phá cách mạng.

– Các đảng cộng sản và công nhân ở một số nước coi nhẹ hoặc buông lỏng công tác xây dựng đảng, đặc biệt, một số đảng cộng sản đã bỏ qua hoặc từ bỏ các nguyên tắc xây dựng đảng kiểu mới của chủ nghĩa Mác – Lê-nin, bỏ qua hoặc từ bỏ các nguyên tắc xây dựng đảng. về chính trị, tư tưởng, tổ chức và đội ngũ cán bộ theo chủ nghĩa Mác – Lê-nin, tạo điều kiện cho các đảng từ cơ hội đào bới, leo lên đứng đầu hàng ngũ đảng để phá hoại đảng từ bên trong. đây là nguyên nhân sâu xa và trực tiếp dẫn đến sự sụp đổ của đảng cộng sản, chế độ xã hội chủ nghĩa ở Liên Xô và Đông Âu.

nhận rõ bản chất, những biểu hiện chủ yếu, nguồn gốc và sự nguy hại của chủ nghĩa cơ hội đối với sự tồn vong của đảng và sự thành bại của phong trào cách mạng, từ đó chống chủ nghĩa cơ hội dưới mọi màu sắc “tả”, hữu, giáo điều, xét lại không chính xác. chỉ là yêu cầu tất yếu của phong trào cách mạng mà còn là sự quy luật, bảo vệ và phát triển của chủ nghĩa Mác – Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh, bảo vệ, bảo vệ và xây dựng Đảng cộng sản trong sạch, vững mạnh về chính trị, tư tưởng và tổ chức.

Lịch sử phong trào cộng sản và công nhân quốc tế đã ghi nhận rằng chủ nghĩa cơ hội luôn tồn tại, nhưng nó thường xuất hiện một cách công khai và phát triển vào những lúc cách mạng gặp khó khăn, thử thách.

Trong giai đoạn từ 1864 đến 1914, Marx, Engels và những người Marxist chân chính liên tục phải đối đầu với những kiểu cơ hội như Frudon, Baculinian, Saxon, Motor, Berstan và Caucus. kể từ thập kỷ đầu tiên của thế kỷ 20, lenin và những người Nga bozeviks đã chiến đấu quyết liệt chống lại “những người theo chủ nghĩa dân túy”, “những người theo chủ nghĩa hợp pháp”, những phe “kinh tế” ở Nga, chống lại chủ nghĩa cơ hội của liên bang Nga, berlin và những người da trắng và đặc biệt là đấu tranh chống căn bệnh “ấu trĩ” của cánh tả và chống chủ nghĩa xét lại trong phong trào cộng sản và công nhân quốc tế. Từ năm 1946 đến năm 1980, các phong trào cộng sản và công nhân quốc tế đã đấu tranh quyết liệt chống lại chủ nghĩa cơ hội của Troxky và chủ nghĩa xét lại của Khorovsky, chiến đấu với căn bệnh giáo điều, khuôn mẫu máy móc và sự sùng bái cá nhân.

Trong suốt quá trình lịch sử cách mạng Việt Nam, vì nhiều lý do chủ quan và khách quan khác nhau, phong trào cách mạng cũng có những lúc chịu sự tác động của chủ nghĩa cơ hội trong các phong trào cộng sản và công nhân quốc tế. tuy nhiên, không có thời kỳ nào mà chủ nghĩa cơ hội xuất hiện với tư cách là một lực lượng, một phong trào có khả năng ảnh hưởng nghiêm trọng đến sự phát triển của cách mạng. song trong thời điểm cách mạng gặp khó khăn, thử thách gay gắt, nhất là trước những bước ngoặt của phong trào cách mạng, những biểu hiện và tư tưởng cơ hội đã xuất hiện dưới hai hình thức tả khuynh, với mức độ khác nhau. thời kỳ 1930 – 1940, khi đảng ta ra đời để lãnh đạo phong trào cách mạng, tại đại hội đảng bộ lần thứ nhất, ngày 3-3-1935 đã nhận định: “Hiện nay, trong đảng ta vẫn còn những khuynh hướng sơ khai (thời cơ). “trái” và phải cả về lý thuyết và thực tiễn ”[2].

Điều đáng chú ý là sự xuất hiện của một quan điểm tư tưởng “cánh tả” theo quan điểm phê phán một số điểm của cuốn sách “Nhà cách mạng Camino”: “nó là một cuốn sách đào tạo đầy những lý thuyết đầu cơ (chủ nghĩa cơ hội), chủ nghĩa cải lương, chủ nghĩa duy tâm, chủ nghĩa dân tộc. ”[3].

Trong việc chỉ đạo khẩu hiệu hành động, có cấp ủy đã đưa ra khẩu hiệu: trí, phú, địa, hào đào tận gốc, nhổ tận gốc! và một số đảng bộ, như thông báo với các đồng chí trung ương quý III năm 1930 đã chỉ rõ: “Mặc dù các xã này (một số xã thuộc các huyện Thanh Chương, Nam Dân, Nghệ An) có đủ giác ngộ, đủ nhiệt tình, nhưng không vũ trang dự trữ hiện nay, theo tình hình nội bộ, mức dự trữ của giai cấp vô sản và quần chúng lao động ở thành thị và nông thôn là mức dự trữ của đảng, tình hình địch, rồi diễn ra bạo loạn lẻ tẻ ở một vài địa phương là bạo loạn, không phải chính trị cánh hữu. [4]

“đó là điều mà cấp ủy đảng các cấp phải nhận rõ để tránh … bạo lực” [5]

Trong giai đoạn từ năm 1954 đến năm 1975, có một số trường hợp trong giai đoạn này, chẳng hạn như trong cải cách nông nghiệp và tổ chức lại tổ chức, “chúng tôi đã mắc nhiều sai lầm. đó là những sai lầm nghiêm trọng, phổ biến và kéo dài về nhiều mặt. những sai sót về nguyên tắc, điều lệ của một đảng theo chủ nghĩa Mác – Lê-nin, trái với pháp luật của nhà nước dân chủ nhân dân … gây ra những thiệt hại to lớn “. Nguyên nhân trực tiếp dẫn đến những sai sót nghiêm trọng trong cải cách ruộng đất và chỉnh đốn tổ chức đã được giải quyết, toàn thể x Cán bộ chỉ rõ: “Khi chỉ đạo thi hành, tư tưởng chỉ đạo có nhiều lệch lạc lúc đầu phong trào mới, khẩu hiệu chống cánh hữu, chống“ cánh tả ”là sửa chữa, nhưng sau này trong phong trào lại có những sai sót “tả khuynh”, lãnh đạo không những không phát hiện ra sai sót, mà còn nhấn mạnh những người chống cực hữu theo một hướng, gây ra cao trào chống cực hữu trong đảng, không được chú ý. để ngăn chặn. mô tả “để các lỗi thiên vị” trái “ngày càng trầm trọng hơn” [6]

Giai đoạn 1976-1986, khi chỉ đạo thực hiện đường lối kinh tế của đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IV, lần thứ V và báo cáo chính trị của đại hội đại biểu toàn quốc, Đảng ta đã chỉ rõ: “Trong 10 năm qua đã có nhiều vi phạm. sai sót trong xác định bước đi, cơ sở vật chất – kỹ thuật xây dựng, cải tạo xã hội chủ nghĩa và cơ chế quản lý kinh tế lạc hậu “” đến nay cơ chế tập trung quan liêu bao cấp vẫn chưa được xóa bỏ trong cơ bản “” công cuộc cải tạo xã hội chủ nghĩa đã có nhiều biểu hiện nóng vội, muốn xóa bỏ ngay các thành phần kinh tế phi xã hội chủ nghĩa và nhanh chóng chuyển kinh tế tư bản tư nhân thành nhà nước “.” Những sai lầm nêu trên là sai lầm nghiêm trọng, lâu dài về chủ trương, chính sách, sai lầm trong chỉ đạo chiến lược và tổ chức thực hiện ” “Những khuynh hướng tư tưởng chủ yếu của những sai lầm đó, nhất là những sai lầm trong chính sách kinh tế, là bệnh chủ quan, duy ý chí, lối suy nghĩ và hành động nóng vội, chạy theo nguyện vọng chủ quan, xu hướng buông lỏng trong quản lý kinh tế, xã hội, không chấp hành nghiêm túc. một suy nghĩ nhỏ uenobourgeois người “trái” và phải. “chúng ta vừa chủ quan vừa nóng vội, vừa bảo thủ vừa trì trệ” [7]

Sau 30 năm đổi mới, ngày 30/10/2016, Hội nghị lần thứ 4 Ban Chấp hành Trung ương (khóa XII) đã chỉ ra 27 biểu hiện suy thoái về tư tưởng chính trị, suy thoái về đạo đức, lối sống và các biểu hiện suy thoái khác. diễn biến, “tự chuyển hóa” của một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên. thực chất là những biểu hiện kịp thời với các cấp độ khác nhau của những cán bộ, dân quân chịu tác động tiêu cực của sự khủng hoảng của chủ nghĩa xã hội trên thế giới sau khi chủ nghĩa xã hội sụp đổ. Liên bang Xô Viết và các nước xã hội chủ nghĩa Đông Âu, từ mặt đối lập của kinh tế thị trường, từ các thế lực thù địch đẩy mạnh chiến lược “diễn biến hòa bình” lợi dụng các vấn đề dân tộc, tôn giáo, “dân chủ”, “nhân quyền” còn những kẻ yếu kém, kẽ hở, buông lỏng của ta để xuyên tạc, bóp méo tình hình để cổ vũ cho lối sống hưởng thụ, thực dụng, ích kỷ, cá nhân, đồng thời cấu kết với những bộ phận cơ hội, tự mãn chính trị trong nước, tích cực hoạt động chống phá cách mạng. ngày càng trở nên tinh vi và nguy hiểm hơn, tuy nhiên, nguyên nhân sâu xa và trực tiếp dẫn đến sự suy thoái về tư tưởng chính trị , đạo đức, lối sống, “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” của một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên chủ yếu là do bản thân người cán bộ. thiếu tu dưỡng, rèn luyện, có tư tưởng không vững vàng, hoang mang, dao động trước những tác động của bên ngoài, sa vào chủ nghĩa ích kỷ, lợi ích nhóm về tư tưởng chính trị, dần dần biến thành những phần tử cơ hội chính trị cùng với những phần tử suy thoái về đạo đức, lối sống, nếu không đấu tranh ngăn chặn và đẩy lùi, tất yếu sẽ dẫn đến sự tồn vong của đảng và sự diệt vong của chế độ xhcn.

nhận thức sâu sắc nguyên nhân, nguy cơ của sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ hiện nay đòi hỏi Đảng ta phải thực hiện có hiệu quả việc tăng cường công tác xây dựng chính trị, tư tưởng và xã hội. tổ chức đảng trong sạch, vững mạnh.

Thực chất, cuộc đấu tranh ngăn chặn, đẩy lùi sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” là cuộc đấu tranh lâu dài chống chủ nghĩa cộng sản, chủ nghĩa cá nhân, chủ nghĩa cơ hội, chủ nghĩa cải lương, chủ nghĩa xét lại và chống chủ nghĩa chiến lược “diễn biến hòa bình” của các thế lực thù địch.

trong đấu tranh chống kẻ thù tư tưởng trong nội bộ, phải hiểu rõ bản chất khoa học cách mạng của chủ nghĩa xã hội chủ nghĩa, tư tưởng Hồ Chí Minh, thực hiện quyết liệt 4 nhóm giải pháp của Nghị quyết TW4 khóa X, cụ thể là 10 nội dung của giải pháp về chính trị. công tác tư tưởng, tự phê bình và phê bình. 6 nội dung giải pháp về cơ chế, chính sách, 8 nội dung giải pháp kiểm tra, kiểm soát và kỷ luật đảng; 5 nội dung về giải pháp phát huy vai trò của nhân dân và mặt trận quê hương, các tổ chức chính trị – xã hội.

Hơn bao giờ hết, cần tăng cường và đẩy mạnh cuộc đấu tranh chống chủ nghĩa cá nhân, chủ nghĩa cơ hội chính trị tư tưởng và những phần tử cơ hội trong nội bộ chưa bị vạch mặt, loại bỏ ra khỏi đảng những phần tử suy thoái, biến chất và những phần tử cơ hội “chạy thời gian”. “,” chạy bằng “,” chạy khen “,” chạy chức “,” chạy chức “… tư duy” trục lợi “lợi ích nhóm” vẫn tồn tại trong đảng ta để đảng ta chuẩn bị và thực hiện thắng lợi cuộc 13. Đại hội: Hình thành đường lối đúng đắn và bầu ra Ban Chấp hành Trung ương tiêu biểu cho trí tuệ, đạo đức, tận tụy với nhân dân, đủ sức lãnh đạo nhân dân ta tiến lên giành những thắng lợi mới trong sự nghiệp đổi mới đồng bộ, đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế. , bảo vệ vững chắc Tổ quốc ./.

pgs.ts dao duy chung nguyên phó trưởng ban thường trực ban tư tưởng – văn hóa trung ương

Related Articles

Back to top button