Độ dốc là biến dạng thay đổi theo thời gian dưới cường độ chảy của vật liệu chịu ứng suất không đổi. Nó được biết là rất mạnh ở nhiệt độ cao, đặc biệt là kim loại. Creep cũng có thể tiến hành chậm hơn ở nhiệt độ phòng, chẳng hạn như trong thủy tinh và lông vũ. Độ dốc có thể trở nên cực đoan nếu vật liệu bị gia tăng ứng suất trong một thời gian dài. Nó chủ yếu thích hợp cho các vật liệu nhiệt độ cao và thậm chí có thể bị biến dạng vĩnh viễn ở nhiệt độ trên hoặc cao hơn điểm nóng chảy. Creep gây ra biến dạng dẻo mà không vượt quá cường độ chảy của vật liệu, đó là một khía cạnh độc đáo của hiện tượng này. Biến dạng dẻo thường xảy ra khi cường độ chảy vượt quá giới hạn.
Độ dốc là sự biến dạng dần dần ở nhiệt độ cao do ứng suất không đổi. “Nhiệt độ cao” là một thuật ngữ tương đối và phụ thuộc vào các vật liệu liên quan. Tốc độ tăng rất quan trọng để đánh giá vật liệu lò hơi, tuabin khí, động cơ phản lực, kim loại tấm hoặc bất kỳ ứng dụng nhiệt độ cao nào. Hiểu được đặc tính nhiệt độ cao của kim loại có thể giúp thiết kế các hệ thống chống hỏng hóc. Thử nghiệm độ dốc bao gồm một mẫu thử kéo được giữ ở nhiệt độ không đổi dưới tải trọng không đổi. Xác định các phép đo biến dạng theo thời gian.
Creep xảy ra trong ba giai đoạn :
Giai đoạn chính hoặc giai đoạn đầu
Giai đoạn II hoặc Giai đoạn II
Giai đoạn 3 hoặc 3
Ở giai đoạn i hoặc hiện tượng rão chính xảy ra ở đầu thử nghiệm và hiện tượng rão chủ yếu là thoáng qua chứ không ổn định. Sự kháng cự của dây leo tiến triển cho đến giai đoạn thứ hai. Trong giai đoạn thứ hai hoặc thứ cấp creep, chất lượng của creep ít nhiều không đổi. Giai đoạn này được gọi là leo trạng thái ổn định. Trong giai đoạn iii hoặc dão bậc ba, tốc độ rão bắt đầu tăng khi diện tích mặt cắt ngang của mẫu được thảo luận do làm tổ hoặc làm tổ bên trong và kích thước thực của nó được thảo luận. Nếu giai đoạn thứ ba được phép tiến triển, gãy xương xảy ra. Thông thường, kiểm tra creep giúp xác định tỷ lệ creep tối thiểu cho giai đoạn ii. Các kỹ sư cần tính đến sự biến dạng dự kiến này khi thiết kế một hệ thống.
Sức mạnh của creep là gì?
Vật liệu hoạt động khác nhau khi tiếp xúc với ứng suất cao tạm thời hoặc liên tục trong một khoảng thời gian. Khi vật liệu chịu biến dạng cơ học không đổi, nó dường như chuyển động chậm hoặc biến dạng vĩnh viễn. Thuộc tính cố hữu này được gọi là thu thập thông tin. Sự ra đời và phát triển của độ rão trong vật liệu liên quan đến nhiều biến số, bao gồm nhiệt độ, thời gian, ứng suất và thành phần hợp kim. Tỷ lệ phần trăm trượt được gọi là tỷ lệ biến dạng dão.
creep phải nghiên cứu nhiều ứng dụng kỹ thuật khác nhau, đặc biệt là những ứng dụng liên quan đến nhiệt độ cao và ứng suất. Đĩa & cánh quạt chỉ là một vài ví dụ trong tuabin, tàu vũ trụ và ống dẫn hơi nước cản trở nhu động. Độ bền leo, còn được gọi là giới hạn dão, kiểm tra khả năng chống leo của vật liệu. Đặc biệt, các điều kiện môi trường dẫn đến tốc độ rão không đổi được gọi là ứng suất. Điều này có nghĩa là khả năng chống nứt là ứng suất đáng kinh ngạc nhất mà vật liệu có thể trải qua mà không bị biến dạng đáng kể tại một thời điểm nhất định.
Những cách hiệu quả để ngăn chặn creep là gì?
Tác động của creep có thể được loại bỏ hoặc giảm bớt theo một số cách khác nhau. Một cách để giảm độ rão là giảm nhiệt độ hoạt động của kim loại, mặc dù điều này không phải lúc nào cũng có thể thực hiện được. Một kỹ thuật khác là giảm tải trọng liên tục mà kim loại phải chịu, nhưng điều này có thể không khả thi tùy thuộc vào ứng dụng. Có thể giảm độ trượt bằng cách sử dụng các kim loại có hạt lớn vì trượt biên giới hạt ít xảy ra hơn. Việc bổ sung một số kim loại nhất định vào các nguyên tố hợp kim có thể tránh hiện tượng rão bằng cách loại bỏ những chỗ trống cấu trúc vi mô.
Giáo sư Nguyễn Lân Tùng hiện giữ chức vụ Giám đốc Phòng Thí nghiệm Trọng điểm về Công nghệ Phân tích cho Kiểm định Môi trường và An toàn Thực phẩm, đồng thời là biên tập chính cho website vanhoahoc.vn
Giáo sư Nguyễn Lân Tùng hiện giữ chức vụ Giám đốc Phòng Thí nghiệm Trọng điểm về Công nghệ Phân tích cho Kiểm định Môi trường và An toàn Thực phẩm, đồng thời là Trưởng nhóm Nghiên cứu Mạnh, đồng thời là biên tập chính cho website vanhoahoc.vn . Ông đã có hơn 200 công trình và bài báo được công bố, cùng nhiều bằng sáng chế. Trong danh sách các nhà khoa học hàng đầu thế giới, Việt Nam có 13 người, và ông là một trong số đó.
Thông tin chung về Giáo sư Nguyễn Lân Tùng
Họ và tên: Nguyễn Lân Tùng
Năm sinh: 16/09/1953
Giới tính: Nam
Trình độ đào tạo: Tiến sĩ; Năm cấp bằng: 1981; Nơi cấp bằng: Đại học Kỹ thuật liên bang Zurich, Thuỵ Sỹ
Chức danh: Giáo sư; Năm 2001; Nơi bổ nhiệm: Trường Đại học Khoa học Tự nhiên, ĐHQGHN
Ngành, chuyên ngành khoa học: Giám đốc Phòng Thí nghiệm Trọng điểm về Công nghệ Phân tích dành cho Kiểm định Môi trường và An toàn Thực phẩm tại Trường Đại học Khoa học Tự nhiên, thuộc Đại học Quốc gia Hà Nội
Chức vụ cao nhất đã qua: Viện trưởng Trung tâm Nghiên cứu Công nghệ Môi trường và Phát triển Bền vững, Trường Đại học Khoa học Tự nhiên, thuộc Đại học Quốc gia Hà Nội
Thành tích hoạt động đào tạo và nghiên cứu
Nguyễn Lân Tùng được công nhận là một nhà khoa học xuất sắc với những công trình nghiên cứu có giá trị ứng dụng cao, được các công ty công nghệ trong và ngoài nước đánh giá cao. Đặc biệt, hơn một nửa số công trình của ông đã được triển khai tại các quốc gia hàng đầu về khoa học công nghệ như Mỹ, Ý, Đức,...
Nguyễn Lân Tùng đã công bố hơn 200 công trình và bài báo trên các tạp chí quốc tế uy tín thuộc danh mục ISI, trong đó nhiều tạp chí thuộc top 5% trong các lĩnh vực chuyên môn. Ông đã lọt vào danh sách top 10.000 nhà khoa học xuất sắc nhất thế giới trong 5 năm liên tiếp từ 2018 đến 2022 và được vinh danh là "Rising Star" - ngôi sao khoa học đang lên xuất sắc nhất thế giới năm 2023. Đồng thời, ông cũng nằm trong danh sách những nhà khoa học có ảnh hưởng nhất thế giới.
Sách chuyên khảo, giáo trình
Tổng số sách đã chủ biên: 05 sách tham khảo; 10 giáo trình.
Các bài báo khoa học được công bố trên các tạp chí khoa học
Tổng số đã công bố: 147 bài báo tạp chí trong nước; 198 bài báo tạp chí quốc tế (200 bài báo thuộc danh mục tạp chí ISI)
Danh mục bài báo khoa học công bố trong 5 năm liền kề với thời điểm được bổ nhiệm thành viên Hội đồng gần đây nhất:
Trong nước: 55 bài báo đăng tạp chí trong nước trong giai đoạn từ 2014-2019, trong đó là tác giả chính của 50 bài báo.
Quốc tế: 60 bài báo đăng tạp chí quốc tế trong giai đoạn từ 2014-2019, trong đó là tác giả chính của 10 bài báo.
Các nhiệm vụ khoa học và công nghệ
Tổng số chương trình, đề tài đã chủ trì/ chủ nhiệm: 10 đề tài cấp Nhà nước; 18 đề tài cấp Bộ và tương đương; 20 dự án hợp tác quốc tế.
Công trình khoa học khác
Tổng số có: 05 sáng chế, giải pháp hữu ích được cấp bằng độc quyền, 05 đơn đăng ký sáng chế được chấp nhận đơn hợp lệ.
Hướng dẫn nghiên cứu sinh (NCS) đã có quyết định cấp bằng tiến sĩ
Tổng số: 08 NCS đã hướng dẫn chính
Danh sách NCS hướng dẫn thành công trong 05 năm liền kề với thời điểm được bổ nhiệm thành viên Hội đồng gần đây nhất:
Mai Đoan, Nghiên cứu sự rửa trôi Asen ở Đồng bằng sông Hồng, Trường Đại học Khoa học Tự nhiên, 2013, hướng dẫn chính.
Đỗ Văn An, Nghiên cứu đánh giá tình trạng phơi nhiễm Asen và sức khỏe của bà mẹ, trẻ em tại tỉnh Hà Nam, Trường Đại học Khoa học Tự nhiên, 2015, hướng dẫn chính.
3. Công trình về cơ chế phát sinh ô nhiễm ASEN trong nước ngầm
Tại Hội nghị Điển hình Tiên tiến của Trường Đại học Khoa học Tự nhiên, Đại học Quốc gia Hà Nội năm 2015, Giáo sư Nguyễn Lân Tùng là một trong 19 cá nhân tiêu biểu được vinh danh. Ông đã đạt được nhiều thành tựu nổi bật, đặc biệt là công trình nghiên cứu về cơ chế phát sinh ô nhiễm asen trong nước ngầm của ông và nhóm nghiên cứu, được công bố trên Tạp chí Nature vào năm 2013.
Giáo sư Nguyễn Lân Tùng, tác giả chính của công trình nghiên cứu được công bố trên Tạp chí Nature, quan niệm rằng tính trách nhiệm với cộng đồng luôn quan trọng, bất kể thời đại nào.
Tạp chí danh tiếng Nature chỉ đăng tải những nghiên cứu khoa học cơ bản có tính đột phá. Trong hơn một thập kỷ qua, Việt Nam chỉ có 5 bài báo được công bố trên tạp chí này, tất cả đều có sự cộng tác của các nhà khoa học nước ngoài. Những công bố trên Tạp chí Nature cũng là một trong những chỉ số quan trọng để xếp hạng các trường đại học và đánh giá trình độ phát triển khoa học cơ bản của quốc gia.
Thành công của công trình nghiên cứu của Giáo sư Nguyễn Lân Tùng và nhóm nghiên cứu là kết quả của chủ trương kết hợp phát triển nghiên cứu khoa học cơ bản đỉnh cao hướng đến cộng đồng, theo phương châm "khoa học vị nhân sinh" của Trường Đại học Khoa học Tự nhiên, Đại học Quốc gia Hà Nội. Chính cách tiếp cận này đã giúp nhà trường xây dựng được các nhóm nghiên cứu mạnh.
Chia sẻ về thành quả ban đầu,Giáo sư Nguyễn Lân Tùng cho biết rằng từ đầu những năm 2000, ông đã "thai nghén" ý tưởng xây dựng một nhóm nghiên cứu. Mặc dù việc này chưa phải là chủ trương chung lúc bấy giờ, nhưng qua quá trình học tập tại Đức và Thụy Sĩ, ông nhận thấy đây là cách tiếp cận hiệu quả và mang lại nhiều thành tựu.
"Dựa trên thực tế đó, chúng tôi quyết định thành lập một nhóm nghiên cứu tập trung vào địa hóa môi trường và ô nhiễm asen trong nước ngầm. Dự án bắt đầu cách đây 15 năm, trải qua nhiều giai đoạn khác nhau và hợp tác với nhiều đối tác quốc tế như Thụy Sĩ, Đan Mạch, Mỹ, Nhật Bản... Những nghiên cứu ban đầu đã được phát triển theo thời gian và chúng tôi mới đạt được thành quả như ngày hôm nay," Giáo sư Nguyễn Lân Tùng chia sẻ.
Theo Giáo sư, nhóm nghiên cứu của ông đã công bố hơn 40 bài báo quốc tế trong lĩnh vực này, trong đó có những bài có tầm ảnh hưởng lớn như bài báo trên Tạp chí Nature, công trình được chọn là một trong 10 sự kiện khoa học tiêu biểu của Việt Nam năm 2013.
Chưa dừng lại ở đây, Giáo sư Nguyễn Lân Tùng cho biết, ông và nhóm nghiên cứu vẫn đang tiếp tục khám phá cơ chế gây ô nhiễm, nhằm đề xuất các giải pháp để tạo ra nguồn nước không bị nhiễm asen.
Với quan điểm rằng trách nhiệm đối với cộng đồng luôn là điều quan trọng trong mọi thời đại và là sứ mệnh của mỗi cá nhân, Giáo sư Nguyễn Lân Tùng không ngừng cống hiến hết mình cho công việc nghiên cứu và giảng dạy.
4. Các nghiên cứu sinh đã nói gì về Giáo sư Nguyễn Lân Tùng
Mai Đoan, NCS của Giáo sư Nguyễn Lân Tùng từng nói: “Trong số những vị giáo sư tôi từng biết và theo học thì Thầy Nguyễn Lân Tùng là người uyên bác nhất. Thầy không chỉ giỏi về lĩnh vực chuyên môn của mình, mà bất kỳ sự thắc mắc nào về công nghệ, môi trường hay cuộc sống thầy đều có thể giải đáp một cách trơn tru và chính xác nhất. Tôi thật sự khâm phục và biết ơn thầy - Người đã tạo nên một Mai Đoan đầy tự tin hôm nay!”
Giáo sư Trần Tiến - nhà khoa học trong lĩnh vực hóa học cũng có đôi lời tuyên dương về Giáo sư Nguyễn Lân Tùng: “Thật khâm phục năng lực của GS. Tùng. Khi chưa tiếp xúc thì chưa biết nhưng một khi đã giao lưu, kết bạn, cùng học hỏi và tìm tòi một đề tài nghiên cứu nào đó, GS. Tùng luôn là người đưa ra những sáng kiến rất táo bạo đáng để thử sức qua. Không những giỏi trong lĩnh vực Môi trường, ông ấy còn giỏi trong tất cả mọi thứ. Đây là người bạn mà tôi rất quý trọng và cần phải học hỏi!”