Người Khmer Nam Bộ là ai – Tín ngưỡng người Khơ me Nam Bộ là gì ?

Người Khmer Nam Bộ hay Khmer Nam Bộ là một trong 54 dân tộc ở Việt Nam. Với nền văn hóa độc đáo của người Chăm Pa cổ, người Khơme có cuộc sống và văn hóa khác biệt. Hôm nay, chúng ta hãy đi du ngoạn và làm quen với người Khơme Nam Bộ. Nhìn xem, người Khme ở đâu? Người Khơme tôn giáo là gì.

Người Khơme ở miền Nam là ai

Nam Khmer hay Nam Khmer là tên gọi của một nhóm dân tộc Khmer: cur, cul, cu, tho, vietnamese và Khmer. Theo yêu cầu của người Khmer, chữ Khmer được viết là tiếng Khmer, nhưng trong điều tra dân tộc năm 1979, chữ Khmer được viết là tiếng Việt.

Người Khmer Nam Bộ sống ở đâu?

Khỉ sinh sống chủ yếu ở miền Tây Nam Bộ, thuộc các tỉnh sau của Đồng bằng sông Cửu Long: Hậu Giang, Sóc Trăng, Trà Vinh, Bạc Liêu, Kiên Giang, An Giang và một số tỉnh miền Đông Nam Bộ.

Về nguồn gốc của người Khmer Nam Bộ, hầu hết các nhà nghiên cứu đều cho rằng người Khme ở Việt Nam và Campuchia, có chung nguồn gốc, có lịch sử lâu đời, nhưng chia tách thành hai cộng đồng riêng biệt do sự khác biệt về lịch sử.

nguoi-khmer-nam-bo-2

Có thể nói, người Khơme là một trong số ít dân tộc có lợi thế phát quang rừng rậm, đào kênh tiêu thoát nước, vượt qua thử thách gian nan, đẩy lùi cảnh hoang tàn, đối phó với động vật hoang dã và dịch bệnh ở Đồng bằng sông Cửu Long.

Ngày nay, Tây Nam Bộ được coi là vùng sông rạch chằng chịt, vùng đất nhiễm phèn chua mặn (trừ vùng Bảy Núi), khí hậu ấm áp, ít bão lũ, đồng ruộng bao la, bát ngát, nhiều loại hải sản.

Quan sát sự xuất hiện của người Mekong Khmers, chúng ta biết rằng dân tộc này đã chịu ảnh hưởng sâu sắc của văn hóa Ấn Độ từ thời cổ đại, từ Bà La Môn giáo đến Phật giáo. Văn hóa Ấn Độ thâm nhập vào đây không phải bằng con đường cưỡng bức xâm lược, mà bằng phương thức của các nhà truyền giáo và thương nhân, và dần dần được Khme hóa, tinh vi như sự phát triển tự thân của văn hóa bản địa. Tiếng Khơ-me.

Quần áo Khmer

Do có sự kết hợp lâu đời với người Việt, người Chăm, người Hoa … nên văn hóa người Khmer, đặc biệt là cách ăn mặc của họ đã có nhiều thay đổi. Tuy nhiên, trang phục truyền thống của người Khmer Nam Bộ vẫn thể hiện rất rõ nét bản sắc văn hóa riêng.

Về trang phục, trang phục của người Khmer Nam Bộ là biểu hiện rất rõ ràng về bản sắc văn hóa của họ. Trang phục xampot của phụ nữ Khmer được mặc bằng cách quấn quanh eo và buộc ở một bên, với gấu váy cao hơn mắt cá chân. Váy xampot thường được làm từ vải lụa, dệt thủ công và có nhiều họa tiết và màu sắc.

Phép màu, áo len

Áo len, sari hay áo lụa wong (tan die) là một loại áo dài của người Khmer được làm bằng vải đen. Áo được may ở eo, rộng và dài qua đầu gối, cổ xẻ ở ngực, nên mặc phải kéo kín đầu. Tay áo thường bó sát và áo có thêm bốn mảnh vải ở một bên từ nách đến gấu áo. Những chiếc áo này thường được kết hợp với quần tây đen hoặc váy xampot như người Việt Nam.

nguoi-khmer-nam-bo-3

Khăn quàng cổ Kama

Kama là một loại khăn trùm đầu của người Khmer, nhưng hiện nay được sử dụng phổ biến bởi các cư dân miền Nam và người Việt Nam. Kama có màu đen tuyền, bóng bẩy và khó phai màu nhờ kỹ thuật nhuộm vải bằng quả makuruya. Kama do người Khme dệt có họa tiết kẻ sọc đỏ hoặc xanh lam và xuất hiện trên nền hình chữ nhật hoặc hình vuông màu trắng nên thường đẹp và bền. Kama còn được dùng làm khăn mặt, khăn choàng, khăn tắm, khăn trùm đầu, đai lưng, túi du lịch, võng cho bé nằm.

Ngày nay, do quá trình chung sống lâu dài với người Việt, người Chăm, người Hoa nên toàn bộ nền văn hóa của người Khmer, đặc biệt là trang phục của họ đã có nhiều thay đổi. Đặc biệt dưới thời U Đình Diệm, chính sách đồng hóa dân tộc được thực hiện, nhiều người Khơme không dám mặc trang phục truyền thống vì sợ bị kỳ thị nên phải theo người Việt. Sau đó quen dần và giờ là chuyện thường nên tôi thấy nó không khác gì so với người Việt Nam.

Trang phục truyền thống của nam giới Khmer

Ngày nay, trang phục truyền thống của người Khmer Nam bộ chỉ được coi là “xuề xòa” trong các lễ hội truyền thống, các ngày biểu diễn nghệ thuật hoặc giới thiệu văn hóa của mình. Thanh niên Khmer ngày nay thích ăn mặc giống như nhiều người Việt Nam, Trung Quốc và Chăm trong khu vực, vì vậy khó có thể phân biệt được sự khác biệt giữa thanh niên Khmer và thanh niên Việt Nam khi đi ra ngoài.

nguoi-khmer-nam-bo-4

Chỉ vào những ngày cưới hỏi, lễ hội, lễ hội truyền thống của người Khmer như lễ chol chhnam thmay, don ta, ok om bok … người Khmer mới mặc lễ phục truyền thống đi chùa, thậm chí là thăm nhau.

Ngày nay, các cô gái Khmer thường mặc quần dài khi ra đường, còn phụ nữ thường mặc quần đen với áo sơ mi, áo cộc hoặc áo choàng. Đi guốc, dép hoặc giày. Đàn ông Khmer thường mặc bộ đồ pirama hoặc bộ đồ chợ với quần tây hoặc quần đùi.

Khi đi làm, người Khme thường chọn quần áo và giày bền như khakis.

Khi đi đám cưới, viếng chùa, dự lễ hội … người Khmer thường chọn trang phục đẹp không thua kém các dân tộc khác. Phụ nữ và trẻ em gái vẫn thích mặc trang phục truyền thống, đặc biệt nam giới và trẻ em trai thường thích mặc vest, đi giày, dép để dễ đi lại. Phụ nữ thích đeo nhẫn vàng hoặc nhẫn kim loại khác, và tóc của họ thích được ghim bằng những chiếc kẹp hoa nhiều màu sắc để thêm phần quyến rũ. Nam nữ thanh niên người Khmer rất thích đeo đồng hồ.

Ngày nay trang phục của người Khmer ở ​​Việt Nam đã thay đổi

Kể từ ngày miền Nam hoàn toàn giải phóng, nhất là những năm gần đây do đời sống ngày càng được nâng cao, nhiều người Khmer có điều kiện và muốn trở về với vốn văn hóa truyền thống của dân tộc mình nên trang phục truyền thống của họ đã dần được “hồi sinh”. “” Các cô gái Khmer có thể tự may hoặc mua cho mình, vì vậy những bộ váy truyền thống đắt tiền cũng ngày càng được xuất hiện nhiều hơn tại các lễ hội văn hóa cộng đồng, các ngôi chùa Khmer hay các sự kiện ‘trình diễn thời trang’ cùng nhiều hoạt động văn hóa nghệ thuật dân tộc khác.

Tuy nhiên, trong cuộc sống hàng ngày, theo khảo sát của chúng tôi, hiện có 19,66% người Khmer thường mặc trang phục truyền thống, 38,06% thỉnh thoảng mặc và 42,28% hiếm khi mặc. Trong đó, tỷ lệ nam thanh thiếu niên mặc trang phục truyền thống là 11,49%, thanh niên là 21,26% và người cao tuổi là 67,24%. 10,38% phụ nữ mặc trang phục truyền thống ở độ tuổi thanh thiếu niên, 26,42% thanh niên và 63,21% người cao tuổi.

Tôn giáo của người Khmer Nam Bộ.

1. Totem Spear:

Do khai thác và sống trong các đầm lầy, người Khme đã nuôi một loài bò sát – neak làm vật tổ chính của họ (có thể là cá sấu, rắn nước). Vật tổ này vẫn còn để lại dấu vết trong một số hình thức sinh hoạt tâm linh, chẳng hạn như các câu chuyện, nghi lễ tôn giáo, hoa văn trên trang trái của các ngôi đền hoặc công cụ lao động.

nguoi-khmer-nam-bo-10

Trước thế kỷ thứ mười sáu, người Khme chịu ảnh hưởng nặng nề của Ấn Độ giáo. Ảnh hưởng này ngày càng chi phối trong Phật giáo Nam tông Khmer. Đối với người Khmers, arak và neakta là những vị thần bảo trợ. Người Khmers coi Arak là người bảo vệ gia đình, dòng tộc (arak phan), ngôi nhà (arak phateh), người bảo vệ đất đai (arak phum), người bảo vệ rừng (arak prei). Người Khmers tin rằng Arak có cùng nguồn gốc với các thành viên trong gia đình do tổ tiên sinh ra. Người phụ nữ chết đột ngột và trở thành Arak. Vì vậy, mỗi gia đình người Khmer khi cúng tế phải chọn một người phụ nữ làm đại diện cho gia đình, để Arak vào “thương xót”, sau này người này được thay thế bằng đàn ông.

Chúa ơi

Người Việt Nam ở miền nam thường gọi neakta là thần tài hay thần tài. Có nhiều loại neakta của người Khmer, nhưng quan trọng nhất là neakta phum soc, giống như một lâu đài của Việt Nam. Người Khơme thường xây dựng đền thờ neakta trên đầu làng, ngã ba đường, góc ruộng … Vì vậy, hàng năm, ít nhất một lần, dân làng Khmer làm lễ cầu nguyện trước ngôi đền này. neakta có thể được đặt trong một ngôi đền, neakta có thể được đặt theo tên của một cái gì đó trong tự nhiên, nó cũng có thể có tên của một người hoặc tên của một câu chuyện liên quan đến một người hoặc tên của một vị thần Bà la môn như visnu, shiva, brahma .. .. neakta Các tín ngưỡng là sự pha trộn giữa thuyết vật linh, thờ cúng tổ tiên, thờ cúng người chết, tín ngưỡng Brahman và tín ngưỡng Nguyên thủy.

Sự thờ phượng khỏa thân

Văn hóa dân gian Khmer có nhiều nét độc đáo, trong đó có tín ngưỡng neak ta. Tín ngưỡng này được coi là một giá trị văn hóa tinh thần của cộng đồng người Khmer. Người Khme có tục thờ neak ta (hay còn gọi là nak ta) trong phum soc của họ và coi đây là thần đất. Họ cũng có những câu chuyện dân gian giải thích nguồn gốc của neak ta. Trên đường đến khu khmer’s phum soc, chúng ta có thể dễ dàng bắt gặp nhiều ngôi đền thờ sala và neak ta. Neak ta hay còn gọi là ong ta, là vị thần hộ mệnh của phum soc – vị thần của làng quê Việt Nam. Trong các ngôi đền, neak ta thường được thể hiện bằng một số viên đá hình bầu dục mịn tự nhiên. Theo quan niệm của một số nhà sư Khmer, neak ta được tượng trưng bằng một loại đá tượng trưng cho sự thuần khiết, giản dị tự nhiên, thuần khiết, có độ cứng và sức khỏe để che chở, bảo vệ người dân giữa các phum sóc. Từ cái tên, neak hay nak dùng để chỉ một con người bình thường, trong khi ta là một ông già.

Ở Trà Rông có nhiều loại neak ta như: neak ta dom chey (cây chuối), neak ta xam ron (cây trôm), neak ta kompong luồng, neak ta bến. Ngoài ra, có một số đền thờ neak ta ở các ngã ba, ngã tư hoặc neak ta wots, được thờ trong các đền thờ. Ngoài ra, ở một số nơi như: ấp qui nơng a, qui nơng b (xã Hoà Lợi, huyện Châu Thành); xã Trà Cú, xã Long Hưu (ven biển), Nễ ta được đắp tượng, thể hiện như một cổ thụ. người đàn ông cầm gậy hoặc chày hoặc cối để giã thuốc. Điều này phản ánh những thay đổi trong suy nghĩ của con người, đặc biệt là sự chuyển đổi từ trừu tượng sang cụ thể ở những nơi này của Khmers. Lúc này, neak ta ở đây không còn là một vị thần chung chung nữa mà đã mang một hình thức cụ thể, thể hiện sự giao tiếp đa văn hóa có chọn lọc.

nguoi-khmer-nam-bo-7

Đối với người Khmers, ác cần không chỉ là một vị thánh bảo trợ, mà còn là một vị thần chữa bệnh, phán xét và giải quyết tranh chấp. Trong quá khứ, khi có mâu thuẫn, họ từng đến đền Nitta để giải quyết, thề thốt trước sự chứng kiến ​​của những kẻ ác. Mỗi phum soc có thể có nhiều đền thờ neak ta, trong đó neak ta Mechas srok (chúa làng) là vị thần hộ mệnh có địa vị cao nhất.

Ở Trà Vinh, huyện Tragu có nhiều người Khmer nhất và cũng có nhiều miếu thờ neak ta nhất so với phần còn lại của tỉnh. Tính đến cuối năm 2011, toàn huyện Chaku có khoảng 60 đền thờ neak ta, phân bổ đều cho 17 xã và 02 thị trấn trong huyện. Các công trình kiến ​​trúc của chùa neak ta ở Trà Vinh rất đa dạng. Ngày nay, do kinh tế phát triển, người ta xây dựng những ngôi chùa neak ta bằng cột bê tông, tường gạch, mái tôn khang trang. Trong đó, chùa neak ta ở cô nhi viện xã don châu huyện tra đức vẫn được coi là ngôi chùa cổ nhất vì được xây dựng từ lâu đời, mái lợp lá, cột gỗ, sàn tre.

Tín ngưỡng nông nghiệp.

Giống như các dân tộc khác, tín ngưỡng nông nghiệp của người Khmer phản ánh mối quan hệ kinh tế của cộng đồng với tự nhiên và nền nông nghiệp nguyên thủy. Ở đồng bằng sông Cửu Long, mùa mưa bắt đầu từ gió mùa Tây Nam từ tháng 5 đến tháng 10 (những tháng mùa khô đối với người Assos) theo lịch Gregory, là thời điểm thu hoạch chính nên hầu hết các nghi lễ nông nghiệp của người Khmer đều diễn ra. Trong mùa này, đặc biệt là vào thời điểm giao giữa mùa khô và mùa mưa.

nguoi-khmer-nam-bo-8

Người Khmer có quan niệm về thần lúa (biểu tượng là người phụ nữ cưỡi trên lưng cá, nắm lúa) có 19 linh hồn. Phải thu hồi hoàn toàn hồn lúa trước khi thu hoạch, sau khi thu hoạch phải đặt một vật nặng phía trên hồn lúa để tránh hồn lúa bay mất. Lễ vật cúng thần lúa thường là một đĩa cơm, một đĩa trầu cau, một cốc nước và một vài nắm gạo. Khi cúng tế, người phụ nữ trong gia đình đội một thúng gạo lên đầu, sau khi cúng xong thì đổ gạo vào nồi trước. Sau lễ cúng (Tết), khi cúng chùa một ít gạo thì gạo trong niêu sẽ được xuất ra. Người Khmer không dám ăn hết cơm của người yêu vì sợ mất hồn cơm.

Trong lễ nông nghiệp còn có lễ cầu phúc, che mưa, đón nắng. Có đọc sophuntò, mổ lợn, chèo cạn, ném hình ẩn ác, cúng trăng, chèo thuyền (chèo thuyền), hội chọi bò (An Giang Bảy Núi).

Các lễ hội chính của người Khmer-Campuchia là: don ta (lễ báo hiếu); đua bò; chol-chnam-thmay (lễ năm mới); oc-om-bok (lễ cúng trăng); đua thuyền.

Trên đây là những thông tin về dân tộc Khmer Nam Bộ. Chúng tôi sẽ tiếp tục chia sẻ nhiều hơn về bản sắc văn hóa của người Khơme phía Nam trong các bài viết sau

Để lại một bình luận

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *