Tim hiểu ngôi đền linh thiêng tại Ninh Giang – đền Quan Tuần Tranh

Ngôi chùa này ban đầu chỉ là một ngôi chùa nhỏ nằm gần sông nên thường xuyên bị ảnh hưởng bởi thủy triều và dòng xoáy. Do bờ sông thường xuyên bị sạt lở nên năm 1935 nhân dân đã xây dựng một ngôi chùa mới tại làng Tranh Xuyên (nay là làng Ninh Giang). Ngôi chùa mới này vẫn được người dân tôn là chùa sơn trang. lễ hội chính của đền mở từ ngày 25 tháng 2 âm lịch (hiện nay là ngày 14 tháng 2 âm lịch).

cuộc chiến tuần tra thứ năm của quan lớn. còn được mệnh danh là ông lớn của tuần. Ông là con trai thứ năm của tổ phụ Bát Hải Động Đình. Ông cũng thuộc triều đại vua Định Vương (Hungary 1980), quê ở Ninh giang (nay là Hải Dương), ông cũng là một tướng tài, chỉ huy thủy quân, được giao quyền bảo vệ vùng duyên hải. sông hình ảnh. ông đã lập nhiều công lao to lớn, được phong làm hoàng tử. ở quê nhà, chàng đem lòng yêu một thiếu nữ xinh đẹp, vốn là vợ lẽ của một quan huyện ở đó, nhưng không bằng lòng với cảnh “chung chồng”, nàng cũng đáp lại tình cảm của chàng bằng cách không nói cho chàng biết rằng nàng đã có gia đình. Vì vậy, vị quan lớn trong tuần vẫn cho rằng đó là một tình cảm đẹp và hứa sẽ lấy cô làm vợ một ngày nào đó. cho đến khi quan huyện kia phát hiện, vu oan cho anh ta là đã dụ dỗ vợ mình. Viên quan tuần tra bất ngờ bị oan và bị đày đến một nơi xa lạ là Lạng Sơn. tại đây anh đã tự sát mong rửa sạch nỗi oan, để chứng minh sự trong sạch của mình, anh đã trở thành dòng sông cuối cùng. Trở về quê hương, anh xuất hiện như một đôi rắn trắng, nếm trải tâm hồn của những người nông dân xưa, sau đó được những người nông dân này nuôi nấng như con đẻ của mình. Nhưng khi chính quyền biết vợ chồng ông lão mua gà để nuôi rắn trắng, họ lập tức bắt họ ra cửa công để tự thú và giết những con rắn khác. hai ông bà thương xót, xin ném con rắn xuống sông tranh, lạ thay khi đôi rắn trắng rơi xuống, nơi đó tạo thành dòng xoáy dữ dội.

Vào thời thực phan an đấu, nhà vua tập hợp chiến thuyền để đánh giặc hàng triệu người ở bến sông tranh, nhưng ở nơi nước xoáy ấy, tàu bè không qua được, mà nổi lên một cơn bão. giữa dòng. hiện tại vua cho mời các bô lão đến đặt cầu cầu đảo, sóng yên biển lặng, hơn nữa quân sĩ ra trận cũng thắng lớn. Ghi nhớ công lao, vua Thục tha bổng cho ông và phong ông là Gio Long Mác. sau này, ông còn linh ứng thần thánh, được phép của trời, cai quản quân đội âm phủ, giúp dân diệt yêu quái, trừ tà ma, diệt trừ những kẻ hại nước, hại dân.

trong hàng ngũ ông quan, cùng với vị quan thứ ba, vị quan thứ năm cũng là người có danh tiếng lẫy lừng, được nhân dân gần xa kính trọng, yêu mến. tuy hàng năm trong triều đại nhân đều là khách cuối, nhưng cũng thường lui tới (ai hầu tứ phủ, tiệc tùng hay lễ nghi nào, đều phải mời người tuần tra trở về). khi ngồi hầu đồng ông mặc áo lam có thêu rồng, hổ; thực hiện nghi lễ thắp hương, lau dọn ngai vàng, chứng kiến ​​lễ múa hát, múa kiếm rồng. khi có đại đàn mở phủ hay tiệc tùng gì thì sau khi mời đại quan phải đợi đại quan thứ năm trở về làm chứng một lần cho ngựa yên ổn rồi mới được dẫn đi.

quan lớn tuan tranh cũng được nhiều nơi tôn kính, nhưng phải kể đến hai địa danh nổi tiếng nhất: thứ nhất là chùa ninh giang hay đại quan tuấn mỹ được xây dựng bên bờ sông (bến đò) ở ninh giang, hải Họ Dương (nơi quê hương ông, nơi ông trấn giữ bờ sông Tranh, nơi ông cũng hiển linh) và đền Ký trấn bên bờ sông Kỳ Cùng, bên kia cầu (nơi ông bị đày). Ngày lễ chính của quan Thượng thư là vào ngày 25 tháng 5 âm lịch (ngày ông bị đày ải và báo cho người dân quê hương tổ chức lễ giỗ ông vào ngày này), hơn nữa vào ngày 14 tháng 2 của ông, các chùa còn tổ chức tiệc. để chào đón sinh nhật của Mandarin.

Vào giữa những năm 40 của thế kỷ 20, ngôi đền được tôn tạo với quy mô khá lớn, kiến ​​trúc theo lối cổ ốc với các cung điện, miếu mạo khác nhau. Năm 1946, trong thời kỳ kháng chiến, nhiều yếu tố của chùa đã bị dỡ bỏ.

đến những năm 60 của thế kỷ 20, đền được dời về phía bắc thành phố ninh giang, cách đền cũ khoảng 300 m, nay thuộc địa phận thôn tranh xuyen, xã đông tam, huyện đông tam, ninh giang. . Ngôi chùa hình ảnh trải qua ba lần di dời và nhiều lần trùng tu, tôn tạo đã chứng kiến ​​nhiều biến cố lịch sử và tích hợp những nét đẹp của văn hóa Việt Nam. theo hệ thống bia ký trong chùa thì vào năm Đức thứ 5 (1852) chùa có nhiều người đáng tu.

Người ta nói rằng “ngôi chùa rất linh thiêng, muốn gì được nấy” nên hàng năm có rất nhiều du khách từ khắp nơi đổ về.

Để lại một bình luận

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *