Từ “đồng” được sử dụng trong tiếng Việt như một thuật ngữ chỉ bất kỳ loại tiền tệ nào, được sửa đổi để phù hợp với tên quốc gia đứng trước nó. Vì vậy, ví dụ, một người sống ở Mỹ và nói tiếng Việt trôi chảy có thể gọi đồng đô la Mỹ là “US dong”. Ngoài ra, “xác thực” và “Mỹ”. “penny” có thể được dùng để chỉ đồng xu và xu của Mỹ. Vì vậy, không đủ để sử dụng từ “đồng” để chỉ tiền Việt Nam. Vietnamese Dong là viết tắt của “Vietnamese Dong”. Vietnamese Dong là gì? Lịch sử và môn phái của Đồng? Mời các bạn đọc bài viết sau để hiểu thêm về tiền Việt Nam.
Tư vấn pháp luật trực tuyếnMiễn phí qua Tổng đài: 1900.6568
1. Đồng Việt Nam là gì?
Đồng Việt Nam là đơn vị tiền tệ chính thức của Việt Nam và được biểu thị bằng mã iso của vnd. Từ “đồng” có nghĩa là tiền trong tiếng Việt, điều này có nghĩa là thêm từ này vào sau tên quốc gia sẽ đề cập đến bất kỳ loại tiền tệ nào. Ví dụ đô la Mỹ sẽ thành đô la Mỹ nên tiền Việt Nam sẽ hiển thị là tiền Việt Nam đồng.
Thuật ngữ vnd dùng để chỉ đơn vị tiền tệ viết tắt của Đồng Việt Nam. Đồng Việt Nam là tiền tệ quốc gia của Việt Nam, thay thế việc sử dụng riêng tiền tệ của miền Bắc và miền Nam Việt Nam vào năm 1978. Đồng Việt Nam được coi là một ngoại tệ vì nó không được thị trường ngoại hối hoặc tài chính toàn cầu quan tâm. Cho đến năm 2016, nó đã được chốt một cách lỏng lẻo với đồng đô la thông qua một thỏa thuận được gọi là chốt bò.
Do đó, Đồng Việt Nam được định giá bằng đồng đô la Mỹ và được quản lý bởi Ngân hàng Nhà nước Việt Nam. Thuật ngữ Đồng Việt Nam được sử dụng trong tiếng Việt để chỉ bất kỳ loại tiền tệ hoặc đơn vị tiền tệ nào, vì vậy đồng tiền quốc gia phải luôn được đánh dấu bằng Đồng Việt Nam.
Đồng Việt Nam được chuyển vào nước này theo nhiều giai đoạn khác nhau, đầu tiên là vào phía bắc và sau đó vào phía nam.
Tiền tệ lần đầu tiên được chính phủ Tokyo đưa vào quốc gia này vào năm 1946, thay thế cho đồng piastra ở Đông Dương thuộc Pháp. Hai lần đánh giá lại sau đó, một vào năm 1951 và một vào năm 1958.
Trở lại miền Nam Việt Nam năm 1953, tiền giấy piastra và tiền Đồng được in, và sau khi Sài Gòn thất thủ vào ngày 22 tháng 9 năm 1975, tiền tệ của khu vực được thay thế bằng Đồng Mới.
Sau khi Việt Nam thống nhất vào ngày 3 tháng 5 năm 1978, Đông cũng được thống nhất. Đồng Việt Nam mới tương đương 1 đồng ở miền Bắc Việt Nam và 0,80 ở miền Nam Việt Nam. Vào ngày 14 tháng 9 năm 1985, chiếc khiên được định giá lại bằng 10 chiếc khiên cũ. Sự kiện này đã dẫn đến một chu kỳ lạm phát kéo dài cho đến giữa những năm 1990.
Đồng Việt Nam đã thay thế đồng tiền bị phá giá trước đó vào năm 1978 và tương đương với 1/10 Đồng Việt Nam. Tại một số thời điểm, Đồng được chia thành xu, nhưng vì nó không còn được chấp nhận là tiền hợp pháp nên Đồng được coi là đơn vị tiền tệ nhỏ nhất. Đồng Việt Nam do Ngân hàng Nhà nước Việt Nam phát hành bị lạm phát nghiêm trọng.
2. Tiền Việt Nam dịch sang tiếng Anh là gì?
Tên đồng Việt Nam dịch sang tiếng Anh: “
3.Lịch sử hình thành và mệnh giá của Đồng Việt Nam?
Vnd là chữ viết tắt của Đồng Việt Nam, thường được thể hiện bằng ký hiệu ₫.
Ngày 6/5/1951, Chủ tịch Hồ Chí Minh ký Sắc lệnh số 15/sl thành lập Ngân hàng Nhà nước Việt Nam với nhiệm vụ: phát hành tiền giấy, quản lý ngân khố quốc gia, thực hiện chính sách tín dụng để phát triển sản xuất, phối hợp quản lý thương mại hợp tác với thực dân Pháp chống đồng tiền.
Chính phủ Bắc Việt Nam, trước đây là Việt Minh, đã đưa tiền đồng làm tiền tệ của mình vào năm 1946, thay thế cho đồng bạc Đông Dương của Pháp. Đồng tiền được định giá lại với tỷ lệ 100 ăn 1 vào năm 1951 và 1.000 ăn 1 vào năm 1959. Tương tự như vậy, tiền tệ của Nam Việt Nam bị chi phối bởi đồng piastre, được thay thế bằng tiền đồng vào năm 1953. Năm 1975, đồng tiền của miền Nam Việt Nam được đổi tên thành Đồng Giải phóng, tương đương với tờ 500 Đồng cũ.
Từ năm 1954 đến năm 1975, đất nước tôi bị chia cắt thành hai miền Nam Bắc, mỗi miền có một đồng tiền riêng nhưng vẫn gọi là “Đồng”. Sau ngày đất nước thống nhất 30/4/1975, đồng tiền lưu thông ở miền Nam mất giá và được đổi tên thành tiền Jiefang. Mãi đến năm 1978, đất nước ổn định và thống nhất nền tài chính thì đồng tiền Việt Nam mới tiếp tục thay đổi. 1 khiên giải phóng ở phía bắc đổi lấy 1 khiên thống nhất và 1 khiên giải phóng ở phía nam đổi thành 8 khiên thống nhất. Đồng thời, nước này cũng phát hành thêm tiền xu mệnh giá 5 xu, 1 đồng, 5 đồng, 10 đồng, 20 đồng, 30 đồng, 50 đồng và 100 đồng.
Sự thống nhất của Việt Nam dẫn đến sự ra đời của Đồng vào năm 1978. Đồng mới tương đương 0,8 đồng Việt Nam hoặc 1 đồng Việt Nam. Đồng Việt Nam được đánh giá lại vào ngày 14 tháng 9 năm 1985 và Đồng mới có giá trị bằng 10 Đồng cũ. Nó bắt đầu một thời kỳ lạm phát kéo dài hầu hết đầu những năm 1990.
Ngân hàng Nhà nước Việt Nam phát hành tiền giấy mệnh giá 5 đồng, 1 đồng, 5 đồng, 10 đồng, 20 đồng và 50 đồng vào năm 1978. Các tờ 2 và 10 vàng được giới thiệu vào năm 1980, tiếp theo là các tờ 30 và 100 vàng vào năm 1981. Các tờ tiền đã được thu hồi vào năm 1985, khi chúng dần mất giá trị do lạm phát và bất ổn kinh tế.
Năm 1985, tiền giấy các mệnh giá 5 kha, 1 đồng, 5 đồng, 10 đồng, 20 đồng, 50 đồng, 100 đồng và 500 đồng ra đời. Do lạm phát dai dẳng, các mệnh giá là 200, 1.000, 2.000 và 5.000 vào năm 1987, 10.000 và 50.000 vào năm 1990, 20.000 vào năm 1991, 100.000 vào năm 1994 và 500.000 và 200.060 vào năm 2003. 5.000 đồng không còn lưu hành
Cho đến ngày nay, có năm bộ tiền giấy. Ngoại trừ năm 2003, các loạt phim trước đó đều được trộn lẫn, không có thiết kế thống nhất.
Tiền giấy hiện có các mệnh giá 100, 200, 500, 1.000, 2.000, 5.000, 10.000, 20.000, 50.000, 100.000, 200.000 và 500.000 đồng.
Tiền tệ được tạo ra vào năm 1946 khi chính phủ Việt Minh (sau này trở thành chính phủ Bắc Việt) đưa ra một loại tiền tệ quốc gia để thay thế tiền tệ của Đông Dương thuộc Pháp. 5 Sau khi Việt Nam trở thành Nam Việt Nam, nó đã phát hành đồng tiền riêng của mình vào năm 1953. Những ghi chú này được trích dẫn trong guilders và piastres, phản ánh sự chuyển đổi của nó. Sau khi Sài Gòn sụp đổ vào giữa những năm 1970, miền Nam Việt Nam đã phát hành đồng xu giải phóng. Đông được thống nhất vào năm 1978 sau khi Việt Nam được thống nhất vào cuối những năm 1970.
Về tiền tệ, năm 1978 có đồng nhôm mệnh giá 1, 2, 5 ha. Đến năm 1976 do lạm phát nên chúng không tồn tại được lâu.
Kể từ năm 1986, có những đồng xu kỷ niệm bằng đồng, thiếc, đồng niken, bạc và vàng. Tuy nhiên, chúng không bao giờ được đưa vào lưu thông.
Ngày 17/12/2003, Ngân hàng Nhà nước Việt Nam đã phát hành một loạt đồng tiền mới. Đây là mệnh giá của 200, 500, 1000, 2000 và 5000 guilders và được đúc ở Phần Lan.
Đồng Việt Nam được quản lý chặt chẽ so với đồng đô la Mỹ và được đặc trưng bởi lạm phát kinh niên. Theo thị trường tiền tệ toàn cầu, Đồng Việt Nam là một trong những đồng tiền tồi tệ nhất trên thế giới. 9 Trong suốt cuối những năm 2010, một đô la Mỹ giao dịch ở mức khoảng 22.000-23.000 đồng. Tính đến tháng 11 năm 2020, một đô la Mỹ tương đương khoảng 23.171 VND theo tỷ giá hối đoái trung bình.
Năm 2017, Bloomberg đưa tin Việt Nam đã bắt đầu chuyển đổi từ nền kinh tế nông nghiệp sang trung tâm sản xuất và lắp ráp thiết bị điện tử, đặc biệt là khoản đầu tư khổng lồ của Samsung Electronics của Hàn Quốc. Điều này có nghĩa là nền kinh tế đã tăng trưởng hơn 6% trong hai năm qua, khiến nó trở thành một trong những quốc gia phát triển nhanh nhất trên thế giới. Hơn nữa, báo cáo lưu ý rằng trong khi các đồng tiền châu Á khác như đồng baht của Thái Lan (thb) và đồng ringgit của Malaysia (myr) tăng giá và đồng peso của Philippines (php) mất giá, thì đồng Việt Nam ít thay đổi. Do đó, một trong những đồng tiền ổn định nhất.
Tất cả trừ bộ sưu tập cuối cùng, ra mắt năm 2003, thường khiến người dùng bối rối và thiếu sự phối hợp trong thiết kế và chủ đề. Ngày 7/6/2007, chính phủ ra lệnh ngừng sản xuất tiền cotton mệnh giá 50.000 đồng và 100.000 đồng. Có hiệu lực từ ngày 1 tháng 9 năm 2007, tờ tiền này đã bị rút khỏi lưu thông.
Năm 2003, Việt Nam bắt đầu thay thế tiền cotton bằng tiền polymer nhựa với lý do sẽ giảm chi phí in ấn. Một số tờ báo trong nước phản đối cải cách, viện dẫn lỗi in ấn và cho rằng hợp đồng in ấn có lợi cho con trai thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam.
Với loạt tiền 2003 thay thế cho các loại tiền cũ cùng mệnh giá, các loại tiền cotton polymer như 200 đồng, 500 đồng, 1000 đồng, 2000 đồng, 5000 đồng đang được phát hành, quảng cáo rầm rộ và được nhiều người đón nhận.
Hiện tại, 100 Đồng, 200 Đồng, 500 Đồng, 1000 Đồng, 2000 Đồng, 5000 Đồng, 10000 Đồng, 20000 Đồng, 50000 Đồng, 100000 Đồng, 200000 Đồng, 500000 Đồng Việt Nam.
Ngoài việc lưu hành tiền giấy, Ngân hàng Nhà nước Việt Nam hỗ trợ ổn định tiền tệ, điều chỉnh tất cả các hoạt động ngân hàng doanh nghiệp và thiết lập chính sách tài khóa của Việt Nam. Nó cũng phát hành trái phiếu chính phủ và kiểm soát dự trữ tài chính của đất nước.