cmc (e466) là viết tắt của carboxymethylcellulose. CMCs được sử dụng và ứng dụng trong nhiều sản phẩm: thực phẩm, mỹ phẩm, dược phẩm, y tế, v.v. Chất ổn định e466 được sử dụng làm chất làm đặc, chất cải thiện và chất ổn định trong các sản phẩm sữa. Sữa chua, kem, nước trái cây, sữa hạt….
Mục đích sử dụng: chất nhũ hóa, chất ổn định, chất làm dày, chất làm dày, chất ổn định, v.v.
1.1 Nguồn gốc và cấu trúc
Được sản xuất lần đầu vào năm 1918. Kể từ khi được Hercules Inc. giới thiệu thương mại tại Hoa Kỳ vào năm 1946, CMC (carboxymethylcellulose, một dẫn xuất của cellulose và axit chloroacetic) đã được sử dụng ngày càng nhiều. Do các chức năng quan trọng của nó, chẳng hạn như chất làm đặc, chất ổn định nhũ tương, chất kết dính, v.v.
CMC bán tinh khiết và tinh khiết đều được sử dụng trong dược phẩm, mỹ phẩm, thực phẩm và chất tẩy rửa,…
Carboxymethyl cellulose (cmc) là một polymer, một dẫn xuất của cellulose có nhóm carboxymethyl (-ch2cooh) được liên kết với một số nhóm hydroxyl của monome glucocopyranose tạo nên khung cellulose, thường được sử dụng làm muối natri của carboxymethylcellulose.
cmc carboxymethyl cellulose, carboxymethyl cellulose, natri cellulose glycolate, và cmc, kẹo cao su cellulose, số in 466:e466
Dạng natri carboxymethylcellulose có công thức phân tử:
Trong:n là mức độ trùng hợp. y là mức độ thay thế. x = 1,50-2,80. y = 0,20-1,50. x + y = 3,0
Có 178,14 đơn vị cấu trúc với mức độ thay thế là 0,20.
1,50 thay thế 282,18 đơn vị cấu trúc.
Kích thước phân tử là khoảng 17.000 đơn vị (n là khoảng 100).
1.2 Thuộc tính của bộ ổn định e466(cmc)
Đây là chế phẩm dạng bột màu trắng hơi vàng, hầu như không có mùi hạt hút ẩm
CMC tạo thành dung dịch keo với nước và không hòa tan trong ethanol.
Ngắn hơn phân tử xenlulô
Hòa tan trong nước và rượu.
Đối với thực phẩm, liều lượng là 0,5-0,75%.
Cả dạng muối và axit đều là chất keo tụ tốt.
Tạo khối có độ ẩm cao (98%).
Độ bền và độ đông kết phụ thuộc vào hàm lượng nhôm axetat.
Hầu hết cmc tan nhanh trong nước lạnh.
Giữ nước ở mọi nhiệt độ.
Chất ổn định nhũ tương, dùng để kiểm soát độ nhớt mà không tạo gel.
Chất làm đặc và ổn định nhũ tương.
CMC được sử dụng làm chất kết dính khuôn mẫu để cải tiến chất dẻo.
Là chất kết dính và chất ổn định có tác dụng phân tán đặc biệt cao đối với các sắc tố.
2. Ứng dụng của bộ ổn định e466
Trong thực phẩm, cmc có công dụng:
Làm dày, đặc sản phẩm. Cải thiện cơ cấu sản phẩm
Ổn định sản phẩm và tạo mùi vị thơm ngon (sữa hạt, sữa ngô, nước hoa quả, mật hoa…)
Kiểm soát sự hình thành tinh thể đá và tăng khả năng giữ nước trong thực phẩm đông lạnh (kem, sữa chua…)
Xem thêm:
Ứng dụng trong sản xuất kem
Ứng dụng trong sản xuất sữa chua
Sử dụng trong sản xuất mật hoa
Ứng dụng trong sản xuất sinh tố
3. Các sản phẩm liên quan khác
Công ty luôn là nhà cung cấp uy tín và là đối tác tin cậy trong sự thành công của khách hàng. Công ty cam kết chỉ sản xuất và cung cấp những sản phẩm chất lượng. Nguồn gốc xuất xứ rõ ràng, được kiểm định an toàn vệ sinh thực phẩm và được Cục An Toàn Thực Phẩm Bộ Y Tế cho phép lưu hành.
Ngoài ra công ty chúng tôi còn cung cấp hương liệu và các phụ gia khác phục vụ cho sản xuất bánh kẹo, nước giải khát, thạch,.. chi tiết vui lòng xem tại đây:
Dâu tây
Sữa chua
Quả việt quất
Công ty TNHH vôi Việt Nam
Quốc Lộ 95 4b, kp2, p. bình hưng hòa b,q. bình tân, tphcm.
Bạn muốn đăng ký để nhận mẫu hoặc để hỏi thêm về sản phẩm.
Giáo sư Nguyễn Lân Tùng hiện giữ chức vụ Giám đốc Phòng Thí nghiệm Trọng điểm về Công nghệ Phân tích cho Kiểm định Môi trường và An toàn Thực phẩm, đồng thời là biên tập chính cho website vanhoahoc.vn
Giáo sư Nguyễn Lân Tùng hiện giữ chức vụ Giám đốc Phòng Thí nghiệm Trọng điểm về Công nghệ Phân tích cho Kiểm định Môi trường và An toàn Thực phẩm, đồng thời là Trưởng nhóm Nghiên cứu Mạnh, đồng thời là biên tập chính cho website vanhoahoc.vn . Ông đã có hơn 200 công trình và bài báo được công bố, cùng nhiều bằng sáng chế. Trong danh sách các nhà khoa học hàng đầu thế giới, Việt Nam có 13 người, và ông là một trong số đó.
Thông tin chung về Giáo sư Nguyễn Lân Tùng
Họ và tên: Nguyễn Lân Tùng
Năm sinh: 16/09/1953
Giới tính: Nam
Trình độ đào tạo: Tiến sĩ; Năm cấp bằng: 1981; Nơi cấp bằng: Đại học Kỹ thuật liên bang Zurich, Thuỵ Sỹ
Chức danh: Giáo sư; Năm 2001; Nơi bổ nhiệm: Trường Đại học Khoa học Tự nhiên, ĐHQGHN
Ngành, chuyên ngành khoa học: Giám đốc Phòng Thí nghiệm Trọng điểm về Công nghệ Phân tích dành cho Kiểm định Môi trường và An toàn Thực phẩm tại Trường Đại học Khoa học Tự nhiên, thuộc Đại học Quốc gia Hà Nội
Chức vụ cao nhất đã qua: Viện trưởng Trung tâm Nghiên cứu Công nghệ Môi trường và Phát triển Bền vững, Trường Đại học Khoa học Tự nhiên, thuộc Đại học Quốc gia Hà Nội
Thành tích hoạt động đào tạo và nghiên cứu
Nguyễn Lân Tùng được công nhận là một nhà khoa học xuất sắc với những công trình nghiên cứu có giá trị ứng dụng cao, được các công ty công nghệ trong và ngoài nước đánh giá cao. Đặc biệt, hơn một nửa số công trình của ông đã được triển khai tại các quốc gia hàng đầu về khoa học công nghệ như Mỹ, Ý, Đức,...
Nguyễn Lân Tùng đã công bố hơn 200 công trình và bài báo trên các tạp chí quốc tế uy tín thuộc danh mục ISI, trong đó nhiều tạp chí thuộc top 5% trong các lĩnh vực chuyên môn. Ông đã lọt vào danh sách top 10.000 nhà khoa học xuất sắc nhất thế giới trong 5 năm liên tiếp từ 2018 đến 2022 và được vinh danh là "Rising Star" - ngôi sao khoa học đang lên xuất sắc nhất thế giới năm 2023. Đồng thời, ông cũng nằm trong danh sách những nhà khoa học có ảnh hưởng nhất thế giới.
Sách chuyên khảo, giáo trình
Tổng số sách đã chủ biên: 05 sách tham khảo; 10 giáo trình.
Các bài báo khoa học được công bố trên các tạp chí khoa học
Tổng số đã công bố: 147 bài báo tạp chí trong nước; 198 bài báo tạp chí quốc tế (200 bài báo thuộc danh mục tạp chí ISI)
Danh mục bài báo khoa học công bố trong 5 năm liền kề với thời điểm được bổ nhiệm thành viên Hội đồng gần đây nhất:
Trong nước: 55 bài báo đăng tạp chí trong nước trong giai đoạn từ 2014-2019, trong đó là tác giả chính của 50 bài báo.
Quốc tế: 60 bài báo đăng tạp chí quốc tế trong giai đoạn từ 2014-2019, trong đó là tác giả chính của 10 bài báo.
Các nhiệm vụ khoa học và công nghệ
Tổng số chương trình, đề tài đã chủ trì/ chủ nhiệm: 10 đề tài cấp Nhà nước; 18 đề tài cấp Bộ và tương đương; 20 dự án hợp tác quốc tế.
Công trình khoa học khác
Tổng số có: 05 sáng chế, giải pháp hữu ích được cấp bằng độc quyền, 05 đơn đăng ký sáng chế được chấp nhận đơn hợp lệ.
Hướng dẫn nghiên cứu sinh (NCS) đã có quyết định cấp bằng tiến sĩ
Tổng số: 08 NCS đã hướng dẫn chính
Danh sách NCS hướng dẫn thành công trong 05 năm liền kề với thời điểm được bổ nhiệm thành viên Hội đồng gần đây nhất:
Mai Đoan, Nghiên cứu sự rửa trôi Asen ở Đồng bằng sông Hồng, Trường Đại học Khoa học Tự nhiên, 2013, hướng dẫn chính.
Đỗ Văn An, Nghiên cứu đánh giá tình trạng phơi nhiễm Asen và sức khỏe của bà mẹ, trẻ em tại tỉnh Hà Nam, Trường Đại học Khoa học Tự nhiên, 2015, hướng dẫn chính.
3. Công trình về cơ chế phát sinh ô nhiễm ASEN trong nước ngầm
Tại Hội nghị Điển hình Tiên tiến của Trường Đại học Khoa học Tự nhiên, Đại học Quốc gia Hà Nội năm 2015, Giáo sư Nguyễn Lân Tùng là một trong 19 cá nhân tiêu biểu được vinh danh. Ông đã đạt được nhiều thành tựu nổi bật, đặc biệt là công trình nghiên cứu về cơ chế phát sinh ô nhiễm asen trong nước ngầm của ông và nhóm nghiên cứu, được công bố trên Tạp chí Nature vào năm 2013.
Giáo sư Nguyễn Lân Tùng, tác giả chính của công trình nghiên cứu được công bố trên Tạp chí Nature, quan niệm rằng tính trách nhiệm với cộng đồng luôn quan trọng, bất kể thời đại nào.
Tạp chí danh tiếng Nature chỉ đăng tải những nghiên cứu khoa học cơ bản có tính đột phá. Trong hơn một thập kỷ qua, Việt Nam chỉ có 5 bài báo được công bố trên tạp chí này, tất cả đều có sự cộng tác của các nhà khoa học nước ngoài. Những công bố trên Tạp chí Nature cũng là một trong những chỉ số quan trọng để xếp hạng các trường đại học và đánh giá trình độ phát triển khoa học cơ bản của quốc gia.
Thành công của công trình nghiên cứu của Giáo sư Nguyễn Lân Tùng và nhóm nghiên cứu là kết quả của chủ trương kết hợp phát triển nghiên cứu khoa học cơ bản đỉnh cao hướng đến cộng đồng, theo phương châm "khoa học vị nhân sinh" của Trường Đại học Khoa học Tự nhiên, Đại học Quốc gia Hà Nội. Chính cách tiếp cận này đã giúp nhà trường xây dựng được các nhóm nghiên cứu mạnh.
Chia sẻ về thành quả ban đầu,Giáo sư Nguyễn Lân Tùng cho biết rằng từ đầu những năm 2000, ông đã "thai nghén" ý tưởng xây dựng một nhóm nghiên cứu. Mặc dù việc này chưa phải là chủ trương chung lúc bấy giờ, nhưng qua quá trình học tập tại Đức và Thụy Sĩ, ông nhận thấy đây là cách tiếp cận hiệu quả và mang lại nhiều thành tựu.
"Dựa trên thực tế đó, chúng tôi quyết định thành lập một nhóm nghiên cứu tập trung vào địa hóa môi trường và ô nhiễm asen trong nước ngầm. Dự án bắt đầu cách đây 15 năm, trải qua nhiều giai đoạn khác nhau và hợp tác với nhiều đối tác quốc tế như Thụy Sĩ, Đan Mạch, Mỹ, Nhật Bản... Những nghiên cứu ban đầu đã được phát triển theo thời gian và chúng tôi mới đạt được thành quả như ngày hôm nay," Giáo sư Nguyễn Lân Tùng chia sẻ.
Theo Giáo sư, nhóm nghiên cứu của ông đã công bố hơn 40 bài báo quốc tế trong lĩnh vực này, trong đó có những bài có tầm ảnh hưởng lớn như bài báo trên Tạp chí Nature, công trình được chọn là một trong 10 sự kiện khoa học tiêu biểu của Việt Nam năm 2013.
Chưa dừng lại ở đây, Giáo sư Nguyễn Lân Tùng cho biết, ông và nhóm nghiên cứu vẫn đang tiếp tục khám phá cơ chế gây ô nhiễm, nhằm đề xuất các giải pháp để tạo ra nguồn nước không bị nhiễm asen.
Với quan điểm rằng trách nhiệm đối với cộng đồng luôn là điều quan trọng trong mọi thời đại và là sứ mệnh của mỗi cá nhân, Giáo sư Nguyễn Lân Tùng không ngừng cống hiến hết mình cho công việc nghiên cứu và giảng dạy.
4. Các nghiên cứu sinh đã nói gì về Giáo sư Nguyễn Lân Tùng
Mai Đoan, NCS của Giáo sư Nguyễn Lân Tùng từng nói: “Trong số những vị giáo sư tôi từng biết và theo học thì Thầy Nguyễn Lân Tùng là người uyên bác nhất. Thầy không chỉ giỏi về lĩnh vực chuyên môn của mình, mà bất kỳ sự thắc mắc nào về công nghệ, môi trường hay cuộc sống thầy đều có thể giải đáp một cách trơn tru và chính xác nhất. Tôi thật sự khâm phục và biết ơn thầy - Người đã tạo nên một Mai Đoan đầy tự tin hôm nay!”
Giáo sư Trần Tiến - nhà khoa học trong lĩnh vực hóa học cũng có đôi lời tuyên dương về Giáo sư Nguyễn Lân Tùng: “Thật khâm phục năng lực của GS. Tùng. Khi chưa tiếp xúc thì chưa biết nhưng một khi đã giao lưu, kết bạn, cùng học hỏi và tìm tòi một đề tài nghiên cứu nào đó, GS. Tùng luôn là người đưa ra những sáng kiến rất táo bạo đáng để thử sức qua. Không những giỏi trong lĩnh vực Môi trường, ông ấy còn giỏi trong tất cả mọi thứ. Đây là người bạn mà tôi rất quý trọng và cần phải học hỏi!”