Ký tự Trung Quốc thường có thể được nhìn thấy trong đám cưới, tiệc tùng và các dịp khác. Tuy nhiên, không phải ai cũng hiểu ý nghĩa, cách sử dụng, cách treo sticker cũng như cách viết chữ happy như thế nào cho đúng. Nếu các bạn đã hiểu thì hôm nay Trung tâm Trực quan Việt Nam sẽ giới thiệu cho các bạn một số sự thật thú vị về chữ Hán.
Tìm hiểu thêm: các khóa học tiếng Trung trực tuyến, các lộ trình cửa hàng có phương pháp.
Nội dung chính: 1. Chữ hỷ là gì? 2. Cách viết chữ hỷ 3. Ý nghĩa và nguồn gốc chữ hỷ trong cưới hỏi 4. Chữ hỷ trong đời sống người Việt 5. Cách treo chữ hỷ
1. H là chữ Hán nào?
Trích chữ hy là hi/xǐ/, chiết chữ hy 囍 là hai chữ phúc rồi ghép lại đọc phiên âm tiếng Trung là phúc kép /shuāngxǐ/.
Chữ h bao gồm /shì/ để chỉ học giả, hai nhóm chữ 口/kǒu/ để chỉ miệng, nhóm bát âm /bā/ để chỉ số 8, và nhóm đầu tiên là /yī / để chỉ số 1. Các bộ này được sắp xếp theo các nét từ trên xuống dưới, từ trái sang phải và từ trong ra ngoài để tạo thành các chữ Xi có ý nghĩa thú vị.
Có thể bạn muốn biết
2. Cách viết chữ sướng
Chữ /xǐ/ gồm 12 nét. Sau đây là cách viết từng nét.
3. Ý nghĩa và nguồn gốc của từ hát đám cưới
3.1 Nghĩa của từ hạnh phúc
Chữ h/xǐ/ trong cấu trúc là một từ phù hợp với cấu trúc trên và dưới, và chữ trên là sự kết hợp giữa tru 壴/zhù/ và hạ/kǒu/.
Học Tiếng Trung sơ cấp ngay bây giờ.
字壴/zhù/: Đây là ký tự tượng hình mô tả một cái trống, mặt trống ở giữa, mặt trên có trang trí, mặt trống ở dưới. Nguồn gốc của ký tự cổ xưa trống /gǔ/ (trống, trống) hiện nay được tạo ra bởi từ tr壴/zhù/. Trong văn học cổ, “trống” mô tả một tay cầm dùi và đánh trống. Nó là một nhạc cụ trống được sử dụng cho các lễ hội, ca hát và nhảy múa.
Miệng lưỡi miệng /kǒu/: Miệng, thể hiện lời ca, lời chúc mừng. Vậy hỶxi là tiếng trống reo mừng, hỶxi có nghĩa là điều tốt lành, điều hạnh phúc.
Xem ngay Từ vựng tiếng Trung cơ bản.
Từ 囍歌hy có nghĩa là hai sự kiện vui vẻ. Chữ “Song Xi” thường được dán trên các đám cưới, ngụ ý hạnh phúc lứa đôi, đám cưới là một sự kiện rất trọng đại và trọng đại. Vì vậy, dùng từ này để chúc cho đôi trẻ sẽ luôn hòa thuận và hạnh phúc. Thêm vào đó, niềm vui nhân đôi sau khi đám cưới kết thúc (gia đình sẽ sớm chào đón một thiên thần khác vào thế giới).
3.2 Nguồn gốc của từ hát đám cưới
Tục treo chữ “h” có nguồn gốc từ Trung Quốc, sau khi du nhập vào Việt Nam vẫn duy trì cách viết của chữ Hán.
Trong các lễ ăn hỏi, đám cưới của người Việt, do ảnh hưởng của văn hóa Trung Hoa, chữ hỷ màu đỏ không ít lần xuất hiện, không phải một chữ mà là chữ “囍”, từ giấy đăng ký kết hôn, phông thiệp cưới, đến mâm cơm, lá chè, hạt sen, trầu cau, hộp lá trầu… Đôi khi chữ “phúc” được dán khắp nhà, ngõ xóm để báo tin vui cho mọi người. Bởi theo quan niệm xưa, chữ Tụng có ý nghĩa biểu thị hai niềm vui lớn: đại đăng khoa – thi đỗ làm quan và tiểu tứ – lấy vợ. Ngày nay, cụm từ này tượng trưng cho niềm vui và sự chúc phúc của cặp đôi có cả họ trai và họ gái. Chữ “hí” (囍) trong đám cưới là sự kết hợp của hai chữ “hí” (vui), gọi là song hỷ. Bài hát có nghĩa là hai, và niềm vui có nghĩa là niềm vui. Khi ghép lại với nhau, song hỷ có nghĩa là hạnh phúc nhân đôi. Ngoài ra, cụm từ 双喜临门 [ shuāng xǐlínmén ] “song hỷ lâm môn” cũng được sử dụng nhiều trong đám cưới Việt Nam ngày nay, đặc biệt là trong đám cưới Trung Quốc. Cụm từ này mang ý nghĩa hạnh phúc nhân đôi, nghĩa là ngày vui của cặp đôi không thể tuyệt vời hơn.
Cho đến ngày nay, chữ “phúc” đã trở thành một phong tục không thể thiếu trong đám cưới của người Việt chúng ta. Chữ “Song Xi” trong đám cưới có liên quan đến một giai thoại đẹp, đó là câu chuyện về điềm lành, số phận và kỳ thi của Wang Anta, một học giả nổi tiếng thời nhà Tống, một trong “Thập bát đại” . gia đình. “
Chuyện như sau: Vương An Thạch từ nhỏ học giỏi, năm 20 tuổi rời quê đi thi ở kinh thành cách 200 dặm. Trên đường đi, Vương An Thạch đi qua một khu phố giàu có. Các lập trình viên nước ngoài trong khu vực đang chọn chồng cho những cô con gái xinh đẹp của họ. Quan ngoại là người có học nên phải chọn con rể có văn phú mới là thánh chứ không phải giàu có quyền thế. Khi Antracite King đi qua cũng là lúc các thành viên nước ngoài tổ chức tiệc sinh nhật. Nhà treo đèn, cắm đầy hoa, khách ra vào tấp nập như mở tiệc. Một chiếc đèn lồng lớn được treo ngoài cửa, người qua đường vừa xem vừa bàn luận. Thấy tình thế lạ lùng, vua Ansach dừng lại xem, thấy phía đối diện quân đội cắm đèn lồng:
Tử mã, đăng mã, ký mã” (nghĩa là ngựa theo đèn, đèn theo đèn) Tắt, dừng ngựa. )
Vương an thạch suy nghĩ hồi lâu không đối phó được, nhưng vẫn kiên quyết nói: “Câu này dễ giải quyết”, rồi rời đi. Họ Mã biết chuyện, chưa kịp báo cáo với quan ngoại, Anta vương đã lên đường đến Bắc Kinh. Vào phòng thi, Vương An Thạch làm bài xong, nộp bài đầu bài. Giám khảo lật tẩy, khen chàng tài hoa, trả lời trôi chảy các câu hỏi, có ý định lấy chàng làm vợ. Vua mời ông vào triều để biết mặt và thử tài. Khi nhìn thấy một tấm biểu ngữ lớn ở Sân Rồng có thêu một con hổ, nhà vua đã ban cho anh ta một tấm:
Cờ bay Hổ, Cờ bay Hổ, Cờ lăn Hổ trốn, Cờ bay Hổ bay, Cờ lăn Hổ trốn).
Vương an thạch chợt nhớ đến câu đối trên đèn xe moóc trước nhà mã ngoại, liền tìm giọng nói, suy nghĩ của hắn rất hay và đúng, vừa nhìn thấy câu này lập tức đọc to: “mã tau thư, quản lý mã Zip, mã bưu chính”. Vua và quan coi thi thấy vua có tài phản xạ nhanh nhẹn, đối phương nói đúng, có ý tốt, bèn phong Vương An Thạch là thủ khoa kỳ thi đó.
Trong khi chờ đợi tên mình trên huy chương vàng, vua kiến trở về quê hương của mình. Khi đi ngang qua Mã Gia Trang, người nhà của ngoại họ Mã nhận ra Lão Vương là người từng nói chữ trên đèn lồng rất dễ đối phó nên mời Lão Vương vào nhà làm quà cho ngoại. thợ nề. Ngụy thư sai Vương An Thạch đọc ngược lại, vua liền lấy câu đối của vua ra đọc vào thành: “Tẩu mã đăng, mã đăng, đăng mã đăng; phi hổ, kỳ phi hổ, kỳ sách hổ.” là vô hình.”
Ma Weien rất vui mừng, thấy đối phương rất thông minh và muốn thể hiện tương lai của mình, anh nói với Wang Ansa: “Phía đối diện của đèn xe kéo là của con gái anh ấy. Cô ấy rất kén chồng, vì vậy Cô thách thức anh ta. Như vậy, nếu ai đó có thể phù hợp, Họ sẽ đồng ý kết hôn. Yêu cầu anh ta gọi con gái ra và để hai bên gặp mặt. Sau đó, lễ cưới sẽ được tổ chức tại Majiazhuang.
Vương an thạch lấy vợ tài hoa phú quý, ở trong nhà ma viên. Cùng ngày, triều đình đăng đàn tuyên bố vua Antaki trở thành trạng nguyên và được triệu hồi về kinh đô để lên ngôi. Thế là chàng trai họ Vương may mắn có được hai hạnh phúc: hôn nhân và đỗ trạng nguyên. Vương An thách thức, hưng phấn ngâm nga: “Đáp lại Nhĩ Hi, Hồ Kỳ Quân đã thành đôi.” Sau đó, anh lấy một tờ giấy, viết hai chữ hạnh phúc thật to rồi đưa cho các nhạc công, mỗi hộ gia đình đưa một bản. Tường thuật lại hai sự kiện cực kỳ may mắn và tốt lành: đại đăng khoa (thi đỗ) và tiểu đăng khoa (kết hôn).
Với sự ra đời liên tiếp của hai bài văn tế “song hỷ”, vị trạng nguyên nổi tiếng này đã đặt ra một thuật ngữ mới, hạnh phúc lứa đôi. Có thể thấy, nguồn gốc của thuật ngữ Song Hye Kyo chính là truyền thuyết lấy được mỹ nhân và đỗ trạng nguyên.
4. Chữ phúc trong đời sống người Việt Nam hiện nay
Cho đến ngày nay, chữ hỷ vẫn là hình ảnh quen thuộc trong các đám cưới của người Việt. Mang ý nghĩa cao đẹp, sticker cưới luôn có một chỗ đứng vững chắc trong lòng các cặp đôi. Chúng như thể hiện mong ước của hai bên gia đình về một cuộc sống hôn nhân hạnh phúc, đôi tân lang tân nương tràn ngập niềm vui. Không chỉ vậy, anh trai còn xuất hiện trên những tấm thiệp cưới đẹp mắt, từ phông thiệp cưới đến hộp bánh cốm, chè búp, hạt sen, trầu cau, lá cau… Trong số đó, thiệp cưới của Song Hye Kyo là luôn là sự lựa chọn hàng đầu của những người mới đến. Tạo ấn tượng đầu tiên với những vị khách VIP. Nhiều người bảo chữ phúc còn có hai nghĩa song song là sướng, đàn ông cưới vợ, đàn bà gả con gái.
5. Cách treo chữ “vui”
Từ “hạnh phúc” có thể được treo trên phông bạt của cảnh đám cưới, đầu giường của phòng ngủ tân hôn, tường hai bên phòng khách, tấm cưới, cổng và trong xe hơi. … nên giữ nguyên khi treo và không nên treo ngược. Mặc dù vẫn có một số người cho rằng nếu có thể dán ngược chữ Hán có nghĩa là phúc thì có nghĩa là phúc sắp đến, chữ “h” ngược lại cũng có nghĩa là phúc đang đến. Tuy nhiên, hầu hết mọi người sẽ không treo ngược, nhưng nó không phải là tuyệt đối. Ví dụ, ở Trung Quốc cổ đại, có truyền thống “kết hôn sớm”, bởi vì những người chết khi chưa kết hôn không thể vào phần mộ của tổ tiên, vì vậy nếu ai đó chết trước khi kết hôn và muốn đến phần mộ của tổ tiên, họ phải “kết hôn”. “. Theo truyền thuyết, người đầu tiên kết hôn là Tào Tháo, con trai của Tào Tháo. Cao Tông thông minh độc đáo từ nhỏ, được Tào Tháo hết mực yêu quý, “Đào Tông gọi là Tương” là chỉ ông, nhưng đáng tiếc ông qua đời năm 13 tuổi. Trong đám cưới này, từ “hạnh phúc” được dùng để chỉ rằng đó là một đám cưới “địa ngục”, nhưng từ “hạnh phúc” vẫn là từ “hạnh phúc” vào thời điểm đó và nó không được vua Ansaqi chấp nhận cho đến sau này thời Bắc Tống, chữ “囍” đã được tạo ra, nhưng từ chống “Xi” trong hôn nhân cũng được đổi thành chống “囍”. Nhiều người quan niệm không được dán ngược chữ “song hải” vì sẽ mang lại những điều xui xẻo cho gia đình. Theo phong thủy, đăng hỷ có thể mang lại đại lợi cho gia đình, đặc biệt là trong ngày cưới.
Trên đây là kiến thức liên quan của Xizi. Hi vọng bài viết hữu ích với các bạn, đặc biệt là các bạn đang muốn tìm hiểu văn hóa Trung Quốc có được những thông tin hữu ích. Cảm ơn bạn đã dành thời gian xem tài liệu, chúc bạn học tiếng Trung tốt.