Nét nghĩa TRANG CHUYÊN NGÔN NGỮ HỌC

3. Chủ nghĩa tượng trưng

Đây là một thành phần có nghĩa liên quan đến chức năng khái niệm của từ.

Khái niệm về sự vật / hiện tượng được hình thành trong quá trình nhận thức của con người. Đó là kết quả của quá trình tìm hiểu, khái quát hóa nhằm gợi ra những thuộc tính quan trọng nhất của sự vật, hiện tượng – đó là những tính chất cần và đủ để phân biệt sự vật / hiện tượng này với sự vật / hiện tượng khác. Các đối tượng / hiện tượng khác. Ví dụ, khi nhìn nhận một con gà trong thực tế khách quan, đứa trẻ học được tất cả các thuộc tính của một con gà cụ thể, nhưng dần dần, nó loại bỏ những thuộc tính ít quan trọng hơn của con gà, ví dụ: màu lông, kích thước, mào của con gà. hoa văn v.v., để cuối cùng chỉ giữ lại những thuộc tính cần thiết cho gà, ví dụ: gà là “vật nuôi”, “thuộc họ chim”, “sống trên cạn”, “được nuôi để lấy thịt hoặc lấy trứng” …. Thuộc tính quan trọng nhất là khái niệm hay khái niệm về gà. Sự liên tưởng liên tục giữa khái niệm gà với âm tiếng Việt “gà” trong quá trình cảm nhận về gà sẽ giúp trẻ sử dụng từ gà trong thực tế khách quan mà không phải lúc nào cũng liên tưởng từ đó với gà. Đây cũng là lúc trẻ hiểu được nghĩa của từ gà trong tiếng Việt và sử dụng nó để giao tiếp, tư duy trừu tượng. Nghĩa của từ “gà” được gọi là tượng trưng.

Vì vậy, có thể nói một cách khái quát: nghĩa khái niệm là nội dung khái niệm của sự vật, hiện tượng được biểu thị bằng từ ngữ.

Tuy nhiên, mỗi quốc gia buộc phải thể hiện những khía cạnh khác nhau của thực tế và chịu ảnh hưởng của các yếu tố lịch sử – văn hóa – xã hội khác nhau. Kết quả là con người nhận thức và phân chia hiện thực khách quan theo nhiều cách khác nhau. Như vậy, ngôn ngữ khi trao lớp vỏ âm thanh cho khái niệm sẽ sắp xếp, tổ chức lại nội dung khái niệm của sự vật, hiện tượng cho phù hợp với cách nhìn, cách phân chia hiện thực khách quan của mỗi dân tộc. Có nghĩa là, có thể có sự khác biệt giữa khái niệm con người có được sau khi nhận thức các sự vật, hiện tượng trong thực tế khách quan và khái niệm được thể hiện bằng lời nói của một ngôn ngữ cụ thể. Vì vậy, cần phân biệt “khái niệm tư duy lôgic” với khái niệm được biểu hiện bằng lời nói: nội dung khái niệm được biểu thị bằng lời nói được gọi là “ý nghĩa khái niệm” của lời nói. Vì vậy, sự khác biệt cơ bản ở đây sẽ là: khái niệm tư duy logic là phổ biến, trong khi ý nghĩa biểu tượng là cụ thể cho mỗi ngôn ngữ. Đúng là cây lúa và các sản phẩm của nó như thóc, gạo, gạo, … không phải là vật thân thiết đối với người châu Âu, và gắn bó mật thiết với cuộc sống hàng ngày của họ, nên trong tiếng Nga hay tiếng Anh, người ta chỉ có một từ duy nhất – rix / rice – – để chỉ tất cả những thứ này. Ngược lại, tiếng Việt chỉ có một từ là banh mi, dùng để chỉ các loại bánh mà người Nga thường cẩn thận phân biệt bằng tên riêng của họ, chẳng hạn như: khleb, bulka, but’erbrod, v.v., một cách tượng trưng (do đó tiếng Nga là rix hoặc the Từ tiếng Anh nghĩa là gạo). Nghĩa biểu tượng) khác với nghĩa biểu tượng của từ “gạo” trong tiếng Việt. Tương tự như vậy, nghĩa bóng của từ banh mi trong tiếng Việt không phù hợp với nghĩa bóng của từ “khleb” trong tiếng Nga. Tuy nhiên, điều này không có nghĩa là người Nga không phân biệt được gạo và các sản phẩm của nó, hay người Việt Nam không thể phân biệt được các loại bánh mì. Ở đây chỉ có sự “mơ hồ” về mặt ngôn ngữ, còn về mặt nhận thức, mọi người trên thế giới phần lớn đều giống nhau.

Tóm lại, ý nghĩa biểu tượng của từ này là kết quả của sự hiểu biết và phân chia thực tế khách quan khác nhau của mỗi quốc gia hoặc thậm chí một nơi. Vì vậy, nghĩa biểu tượng của từ là một hiện tượng ngôn ngữ, không phải hoặc không nhất thiết là một hiện tượng của hiện thực khách quan. Vì vậy, về nguyên tắc, ý nghĩa khái niệm của từ có thể không phù hợp với khái niệm tư duy lôgic. Đây là lý do tại sao cùng một sự vật hoặc hiện tượng được ngôn ngữ khái niệm theo những cách khác nhau thông qua cách đặt tên. Ví dụ, “miếng vuông mỏng, thường được dùng để lau tay, miệng, mũi và quần áo …” trong tiếng Việt được hiểu là “khăn tay” và trong tiếng Nga là “noxovoi platok” – nghĩa đen được dịch là “Vải đũi”, trong tiếng Đức, là “taschentuch” – nghĩa đen là “vải”.

Đi vào bản chất của biểu tượng, người ta cũng có thể phân biệt các thành phần nhỏ hơn của nó – đó là “có nghĩa” hoặc “có nghĩa”. “Đặc điểm có nghĩa” là các thuộc tính được rút ra từ các khái niệm và được giữ lại để tổ chức ý nghĩa biểu tượng của từ. Vấn đề là, các ngôn ngữ có thể giữ lại các thuộc tính khác nhau và / hoặc có cách riêng để tổ chức ý nghĩa thành các giác từ. Điều này làm cho các ý nghĩa khái niệm của các từ trong ngôn ngữ thường khác nhau và do đó khác với các khái niệm của tư duy logic.

Đúng là từ “nước” trong tiếng Việt chỉ có nghĩa là “chất lỏng”, trong khi từ “nước” trong tiếng Anh bao gồm các nghĩa sau: – chất lỏng, – chất lỏng không màu – chất lỏng không mùi – chất lỏng không vị, do đó, nghĩa biểu tượng của từ tiếng Anh “Water” gần với khái niệm tư duy logic hơn là nghĩa biểu tượng của từ “nước” trong tiếng Việt. Điều này dẫn đến sự khác biệt trong cách và khả năng gọi tên những thứ liên quan: người anh không thể nói “nước mắm”, “nước dừa”, “nước mắt”, “nước miếng”, “nước mũi”. Tiếng Việt.

Để phân biệt hai phạm trù khái niệm này, Ngôn ngữ học nhận thức giới thiệu các khái niệm “bức tranh khoa học về thế giới” và “bức tranh ngôn ngữ về thế giới”, trong đó “bức tranh ngôn ngữ của thế giới” là cũng được coi là một ‘bức tranh dân gian của thế giới’.

(thêm) ____________________________________

Related Articles

Back to top button