quan điểm sai là quan điểm sai lầm. Nó là nguồn gốc của mọi sự không lành mạnh. tất cả những điều tồi tệ tồn tại trên đời đều là do anh. Kinh Chánh kiến của Kinh Trung bộ có lời giải thích về Chánh kiến như sau: “Hỡi các bạn, khi một đệ tử cao quý hiểu được bất thiện và tri giác căn bản là bất thiện, tri giác căn bản là lành và trí tuệ căn bản là lành. Khi ấy, chư hiền đệ tử có. quan điểm đúng đắn, quan điểm đúng đắn và niềm tin tuyệt đối vào giáo pháp và đạt được giáo pháp tuyệt vời này. giới hạn ở đây không chỉ là hiểu biết, kiến thức, mà còn là biết lắng nghe, suy nghĩ và trải nghiệm. nói dối, lừa dối, vu khống, nói xấu, dâm dục, ác ý, và tà kiến. Căn bản của bất thiện là tham lam, sân hận và lừa dối. cũng là điều ngược lại với không lành mạnh. căn bản của điều thiện không phải là tham, sân, si. nếu bạn không thể hiểu được những pháp đó, đó là một tà kiến. mọi người trên thế giới đều có tà kiến , do đó họ tạo ra vô số nghiệp mỗi ngày. Do tạo nghiệp xấu, tôi phải chịu đựng sự đau khổ mãi mãi.
trong kinh vipassana, có 62 tà kiến, chia ra như sau: tà kiến theo quá khứ có 18 thứ, 5 phần là tà kiến (có 4 nguyên nhân), tà kiến thường thấy vô thường. có 4 nguyên nhân), quan điểm về giới hạn không giới hạn (có 4 lý do), quan điểm tầm thường (có 4 lý do), quan điểm không có nguyên nhân và kết quả (có 2 lý do), và quan điểm không đúng về vị lai có 44 sự vật, 5 phần là quan điểm hiện hữu (có 16 nguyên nhân), quan điểm không tri giác (8 nguyên nhân), quan điểm không tri giác và không tri giác (có 8 nguyên nhân), sự chấm dứt của quang cảnh (có 7 nguyên nhân), niết bàn hiện tại (có 5 nguyên nhân). (trích bản dịch siêu hình học sơ cấp do ht. net dịch). Để hiểu rõ hơn hãy đọc kinh võng du. sư phụ đại khanh, giảng kinh võng du, sưu tầm 62 tà kiến thành 2 tà kiến: tà kiến vĩnh viễn và tà kiến diệt. giáo viên giải thích như sau:
1. lẽ thường:
+ tin vào cái tôi vĩnh cửu.
+ tin tưởng vào một cấp trên có toàn quyền giết người, một người sáng tạo.
+ tin vào một kết cục đau khổ nào đó trái với nhân quả.
2. đoạn kiến:
+ impersonal: giả định rằng mọi thứ xảy ra một cách tình cờ, không có nhân quả.
+ không hành động: cho rằng thiện ác như nhau, hành động là đủ, bạn có thể tự do sống và hành động theo ý muốn.
+ tầm nhìn về sự không tồn tại: nó cho rằng những gì chúng ta không thể chứng minh, chúng ta không nhìn thấy, chúng ta không nghe thấy không hiện diện, nó không phải là sự thật.
được hiểu đơn giản là người nghĩ rằng sau khi chết là vĩnh viễn (ví dụ: người chết có thể là người, vật chết vẫn là vật) hoặc người chết lên thiên đường để sống mãi mãi hoặc xuống địa ngục để sống mãi mãi; một người nghĩ rằng khi bạn chết, bạn không còn nữa. Do những quan điểm sai lầm đó, con người giết hại, trộm cắp, tà dâm, tà ngôn, tham lam, ác ý, tà kiến, mê tín dị đoan mà không sợ nhân quả sẽ giáng xuống mình. Do không có ánh sáng của Phật, nhiều người đã chấp nhận và thuyết giảng tà kiến như vậy.
các tập lệnh cú pháp có câu:
“Đường dài cho kẻ mệt mỏi, đêm dài cho kẻ thao thức trong sinh tử, kẻ ngu không biết pháp chân chính.”
Bởi vì họ không biết giáo pháp thực sự, những người ngu ngốc tiếp tục tạo nghiệp. Do nghiệp báo, người ngu cứ luân hồi, chịu nhiều đau khổ.
Kinh chánh kiến cũng dạy, tóm lại, đó là trí tuệ và kiến thức về thức ăn, sự thực hành bắt đầu ăn, sự dừng lại của thức ăn, con đường dẫn đến sự ngừng lại của thức ăn. kiến thức về khổ, tập, diệt và con đường (bốn chân lý cao cả). kiến thức về từng phần của 12 nhân duyên như tuệ giác của già và chết, nguồn gốc của già và chết, sự ngừng của già và chết, con đường dẫn đến sự ngừng của già và chết, v.v. 11 yếu tố còn lại, sinh, tồn, chấp thủ, tham ái, thọ, xúc, sáu căn, danh và sắc, sắc, vô minh. phần sau là kiến thức về lậu, về nguồn gốc của lậu hay đoạn diệt của lậu, con đường dẫn đến đoạn dừng của lậu. Để hiểu rõ hơn, hãy đọc Kinh Chánh kiến trong Kinh Trung bộ.
Nói tóm lại, không biết rõ về thiện và ác, thức ăn, tứ diệu đế, duyên khởi (nhân quả), lậu hoặc thiếu cái nhìn đúng đắn. không có chánh kiến có nghĩa là tà kiến. hành động, lời nói, suy nghĩ theo tà kiến là hành động sai, lời nói, ý nghĩ sai trái. Ví như không biết thiện ác, nhân quả, nên nghĩ đến lòng tham, lòng thù hận của người ta, hại người, dối trá, lừa lọc, gian xảo, giết người, lấy gì làm tà thuật trong giáo dục, bói toán, bói toán, thờ cúng. sao giải hạn, cúng thần tài, mê tín dị đoan trái luật nhân quả … thế gian không thể thoát khỏi khổ đau bởi những linh ảnh sai lầm nổi tiếng mà trong kinh nói rằng đó là rừng rậm. nguyên lý duyên khởi dạy: “cái này sinh ra, cái kia sinh ra, cái này có, cái kia”. suy luận, tà kiến sinh ra, tà kiến sinh ra, tà niệm sinh, lời nói sai lầm, ngôn luận sai lầm sinh ra, nghiệp chướng sinh ra, tà mạng sinh ra, sinh mạng sai lầm, sinh mạng sai lầm, sinh lực sai lầm. sinh ra, chúng sinh là nỗ lực sai lầm là sinh ra ý nghĩ sai lầm, sinh ra ý nghĩ sai lầm là sinh ra định kiến sai, sinh ra định kiến sai lầm là sinh ra trí tuệ sai lầm. như vậy, cái ác sinh ra là tất cả cái ác sinh ra, cái thiện bị tiêu diệt.
100 người trên thế giới là hàng trăm người muốn thoát khỏi đau khổ. nếu không rõ nguyên nhân thì không thể hết khổ. khổ đau sinh ra nghiệp, nghiệp chướng sinh ra vô minh. thiếu hiểu biết là một quan điểm sai lầm. nguyên lý duyên khởi dạy: “nếu cái này chấm dứt, cái đó sẽ chấm dứt, không phải cái này thì không phải cái kia.” do đó muốn diệt khổ thì phải diệt trừ tà kiến. Phá tà kiến là phải có chính kiến, có chính kiến là phải biết thiện ác, lương thực, tứ diệu đế, duyên khởi, và hư hoại.
Trước tiên, hãy tìm hiểu các kinh điển về thiện và ác, tứ diệu đế và duyên khởi, sau đó tìm các giải thích, sách hoặc video về các chủ đề trên. sau đó đọc, nghe và phản ánh cho rõ ràng. cuối cùng là áp dụng thực tế vào cuộc sống thực tế. nếu không hiểu thì phải tìm những người thầy thông thái để giải đáp.
Nếu bạn muốn được giác ngộ, bạn không thể bỏ qua việc thực hành chánh kiến và đoạn diệt tà kiến. để phá bỏ những quan điểm sai lầm, người ta phải thường xuyên suy ngẫm: “vạn vật tồn tại và tồn tại trên đời đều do nhân duyên mà có”. Ví dụ, con người và động thực vật sống nhờ vô số điều kiện như: nắng, ánh sáng, nhiệt độ, nhiệt, thời tiết, khí hậu, không khí, nước, mưa, mây, gió, tầng ôzôn, sông, suối, núi, biển, hồ , ao, đất, cát, kim loại, các loại lực lượng vật chất, chuyển hóa, di truyền, năng lượng, các định luật vật lý, hóa học, sinh học… hãy quán chiếu để thấy rõ bản chất của các pháp là tánh không. “Không” không phải là không tồn tại, nhưng “không” có nghĩa là không có tự tính, không có tính độc lập, không có bản thân, không có đấng sáng tạo. chúng hoạt động trên nguyên lý duyên khởi (lý do duyên khởi và lý do đoạn diệt). từ ví dụ này, chúng ta có thể nghĩ ra nhiều ví dụ tương tự khác.
với một chút kiến thức, người viết xin được chia sẻ. Hy vọng những người có duyên sẽ đọc và thích tu tập, nghiên cứu Phật pháp. Cuối cùng, tôi cầu chúc những người có duyên đọc được bài viết này, có nhiều sức khỏe và hạnh phúc trong cuộc sống.
đau lòng