Đại La thành – tiền thân của kinh thành Thăng Long – Nhịp sống Hà Nội

(hnmct) – Nhân kỷ niệm 1010 năm ngày sinh của vua Lê Tài, dời đô từ Hứa Lộc về Đà Lạt, tạo nên “Kinh đô muôn thuở”, mở đầu cho số báo này, Hà Nội Tết Chuyên mục “Thăng Long 1010 – Hà Nội” sẽ được khai mạc vào cuối tuần qua, cung cấp những tư liệu lịch sử về sự hình thành và phát triển của kinh thành Thăng Long xưa, thủ đô Hà Nội hiện nay. Tôi hy vọng điều này sẽ giúp ích cho độc giả. Biết và yêu Hà Nội hơn – thành phố ngàn năm văn hiến.

Năm 607, Đông Bình (nay là nội thành Hà Nội) thay Long Biên làm cai quản Chu Châu Giao Chỉ (Jiaozhou). Năm 621, thủ hiến của bang được lệnh xây dựng lâu đài. Năm 679, Tông Bình trở thành thủ phủ của Đường An Nam và 59 quận của Phù 12 châu do nhà Đường thành lập. Năm 767, triều đình Changbayi cho xây một bức tường thành ở phía bắc sông Lịch, gọi là la thành (ngoại thành). Từ “la” gợi hình ảnh những vật thể cong. Nhưng bức tường không thể chịu được sự tấn công của Feng Xiong – ông ta đã lật đổ chính quyền thuộc địa của người dân miền Bắc và cai trị trong 7 năm sau đó. Sau khi chết, ông được tôn kính là cha của vị vua vĩ đại ở thế giới bên kia.

Mặc dù cơ nghiệp của Feng không lâu, nhưng cuộc tấn công vào tướng Feng Ping đã cho thấy sự yếu kém trong phòng thủ của thành phố. Vì vậy, vào năm 791, Tổng đốc đã triệu hồi xương cốt để củng cố thành phố. Hàng triệu bộ xương nối tiếp nhau, đến năm 806, Trương Chu cho xây một bức tường thành mới gọi là “an nam la thành” cao gần 7m, dài 6km. . Có 10 doanh trại trong thành phố, và một thành phố được nhìn thấy từ đây. Để bảo vệ triều đình, Zhang Chu đã xây dựng một bức tường thành mới ở phía nam sông Dongwu. Tuy nhiên, vào năm 824, Lý Nguyên Gia dời phủ đến sông Dorik, với lý do thành phố bị “nước ngược”, mãi một năm sau mới khôi phục lại.

Năm 863, quân đội Liên minh bao vây Căn cứ Jiaochi. Sau khi Tống Bình thất thủ, Bắc triều đã cử một tổng trấn mới, Cao Biện – một quân nhân và một thầy phong thủy tài ba. Năm 864, Cao Bí được bổ nhiệm làm tổng tư lệnh chiến lược kinh tế và tiến quân vào Giao Chỉ.

Sau khi buộc kẻ thù phải rút lui, vùng biển cả đã xây dựng lại thủ đô bị tàn phá bởi chiến tranh. Đầu tiên là xây một bức tường thành cao 9 mét, rộng 8 mét, được xây bằng đá chân thành, có 55 lính gác, 6 cổng vòm nhỏ, 6 cổng lớn. Bên ngoài tường thành có tường thành bằng đất thấp có chu vi khoảng 6000m. Vì thành phố mới rộng hơn trước nên có tên là Thành phố Đà Lạt. Lâu đài Della có hai bức tường bảo vệ và có diện tích hơn 300 ha. Theo các ghi chép cũ, dân số của vùng nội ô và ngoại thành vào khoảng 150.000 người, với khoảng 4.200 quan lại và khoảng 4.000-5.000 (đôi khi lên tới 10.000) quân đồn trú.

Bởi vì đất khá bằng phẳng, nó đủ cao để bao phủ 12 ngọn núi đất. Trước đây, người ta cho rằng Nongshan là trung tâm của thành phố Đà Lạt, nhưng kết quả khảo cổ của Huangdi số 18 cho thấy khu vực này là trung tâm của thành phố Đà Lạt. Trước đây, một số nhà nghiên cứu cho rằng đây là bức tường thành của lâu đài cổ đại dựa trên đoạn tường có tên “la thành” từ phố Hoàng Hồ và yuzu đến cau giay, nhưng kết quả khảo cổ học cho thấy những con đê này có từ thế kỷ 12 và cuộc sống sau này.

Sự suy yếu của nhà Đường để lại quyền lực vào tay gia đình sau này. Năm 906, lợi dụng thời cơ của An Nam, nhà Lương tự xưng là Ngô đế, một năm sau ông mất, con trai là người thừa kế Hoho. Có nhiều cải cách quan trọng trong khuc hao, “chủ yếu là yêu thương khoan dung, giản dị, nhân dân hạnh phúc”. Ông đã sửa chữa hệ thống thuế má và địa tô nặng nề của nhà Đường. Ông đã đối xử với triều đình phương Bắc bằng một đường lối ngoại giao mềm dẻo, “giả danh thần phục và thực sự độc lập”. Sau cái chết của Hu Kehao, con trai ông là người thừa kế gia sản của cha mình. Năm 923 (theo ghi chép là 930), vua Hàn Quốc đưa quân tấn công thành phố Dala, và Ketomei bị bắt.

Năm 931, Tuần phủ A Châu là Đường Định Nghệ (tên gọi là Đường Định Nghệ) dấy binh vào giải phóng thành Đà Lạt, tự xưng là Sứ giả cấm đạo. Năm 937, Đường Định Nghệ bị một tướng nước ngoài giết hại. Năm 938, con rể của Yang Tingyi là Ngô Quân chuyển quân từ Aizhou tấn công thành phố Đà Lạt, giết chết Việt kiều. Vua Nam Hán cử Hoàng Thiệu dẫn quân đánh Giao Châu. Ngô Quân sai quân đóng cọc trên sông Baidang, đánh tan quân Nam Hán và giết được tướng giặc. Vào mùa xuân năm 939, Ngô Quân từ bỏ địa vị quân sư, tự xưng là vua nước Ngô, thành lập một quận tự trị, chấm dứt 1.000 năm Bắc thuộc và dời đô đến Gaoroa.

Sau khi Vương triều Mai mất quyền cai trị (khoảng năm 965), đất nước rơi vào thời kỳ hỗn loạn với 12 vị hoàng đế. Một trong số đó là Ding Baolin, người dẹp loạn, thống nhất đất nước và trở thành hoàng đế vào năm 968. Ding Tianhuang đặt tên đất nước là dai co viet, với thủ đô ở Hualu. Sau khi lên ngôi, Đinh Thiên Hoàng đã giao lại lâu đài Daila cho nhà sư Hồ Chí Minh chủ trì. Để tiết kiệm cơ hội khôi phục lâu đài, hãy quay về hướng nam (về phía thủ đô Hualu, không phải hướng bắc như chính quyền thuộc địa). Nhiều giả thuyết cho rằng Lugu cai trị Lâu đài Dela cho đến khi Vua Li Taito dời đô khỏi Hualu vào mùa thu năm 1010.

Để lại một bình luận

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *