Ảnh hưởng của TRIFLURALIN | Trang thông tin thủy sản

Trifluralin là một hợp chất hóa học có tên là α,α,α-trifluoro-2,6-dinitro-N,N-dipropyl-p-toluidine. Trifluralin ở dạng tinh thể có màu vàng ít hòa tan trong nước. Tuy nhiên, chúng hòa tan tốt trong một số dung môi hữu cơ như aceton, cồn và xylen

Cấu tạo và đặc tính của Trifluralin

Trifluralin là một hợp chất được gọi là α, α, α-trifluoro-2,6-dinitro-n, n-dipropyl-p-toluidine. Trifluralin ở dạng tinh thể màu vàng ít tan trong nước. Tuy nhiên, chúng có thể hòa tan trong một số dung môi hữu cơ như axeton, rượu và xylen

Trifluralin là một loại thuốc diệt cỏ trước khi xuất hiện được đăng ký sử dụng lần đầu ở Hoa Kỳ vào năm 1963. Trifluralin được sử dụng để diệt cỏ dại lá rộng và hàng năm. Cơ chế hoạt động của trifluralin là ức chế sự phát triển của rễ, và chúng làm gián đoạn quá trình phân chia tế bào trong quá trình phát triển ban đầu của tế bào mầm. Do đó, trifluralin thường được bón vào đất trước khi cỏ dại xuất hiện

Ứng dụng của trifluralin trong nuôi trồng thủy sản

Trong nuôi trồng thủy sản, trifluralin lần đầu tiên được sử dụng trong lĩnh vực sản xuất giống tôm sú để ngăn ngừa và kiểm soát bệnh nấm sợi trên tôm giống. Hiện nay, trifluralin được sử dụng rộng rãi trong xử lý nước và diệt ký sinh trùng gây bệnh trong nuôi cá, đặc biệt là cá tra giống.

Ảnh hưởng của trifluralin đối với các sinh vật dưới nước

Trifluralin rất độc đối với đời sống thủy sinh và động vật lưỡng cư. Độc tính cấp tính của trifluralin (lc50 hoặc ec50) đối với các loài nhạy cảm thường nhỏ hơn 0,1 mg / l

Ngoài ra, trifluralin cũng ức chế sự phát triển của thực vật thủy sinh, nồng độ trifluralin ở mức 0,18 mg / l ức chế hoàn toàn sự phát triển của tảo gai (tảo xanh nước ngọt), và hàm lượng trifluralin ở 2,5 mg / l cũng hoàn toàn bị kìm hãm.Kìm hãm sự phát triển của thực vật thủy sinh. Sự phát triển của rong biển.

Ảnh hưởng của trifluralin đối với sức khỏe con người và động vật

Hàm lượng độc tính cấp tính (ld50) của trifluralin đối với động vật trên cạn cao hơn so với động vật thủy sinh (ít độc hơn). Giá trị ld50 của trifluralin là khoảng 10g / kg đối với chuột cống và 0,5g / kg đối với chuột nhắt (chuột nhắt). kg, 2g / kg đối với thỏ và chó. Lượng trifluralin bài tiết qua phân chiếm 80% và nước tiểu chiếm 20%. Trifluralin được hấp thu nhiều nhất được phân bố trong mô mỡ, thận, gan, tuyến thượng thận và máu. Trifluralin được chuyển hóa in vivo thông qua các phản ứng khử nitro, n-dealkyl hóa, hydroxyl hóa và chu trình hóa.

Tuy nhiên, với độc tính mãn tính, khối u ác tính phát triển trong thận, bàng quang và tuyến giáp của chuột. Các khối u cũng được tìm thấy trong gan, phổi và dạ dày của chuột. Trifluralin không tinh khiết có thể chứa n-nitrosamine, có thể gây ra khối u và gây đột biến gen ở động vật. Cơ chế hình thành khối u chưa được thiết lập, nhưng trong trường hợp khối u của tuyến giáp và tinh hoàn, nó được cho là có liên quan đến hệ thống nội tiết. Trifluralin làm giảm nồng độ testosterone, fsh và lh, đồng thời làm giảm số lượng tế bào mầm và tế bào soma trong viêm tinh hoàn chuột. Trifluralin cũng làm giảm nồng độ Lh ở cừu, nhưng làm tăng nồng độ cortisol, estradiol và insulin. Không có bằng chứng rõ ràng về tác dụng độc hại của trifluralin đối với bộ gen động vật và đột biến gen. Ngoài ra, trifluralin còn ảnh hưởng đến sự phát triển của phôi thai và làm giảm quá trình sinh trưởng và phát triển của con cái.

Theo một nghiên cứu của Hoa Kỳ, trifluralin có thể làm tăng nguy cơ phát triển ung thư hạch không Hodgkin. Tuy nhiên, hầu hết các nghiên cứu về ảnh hưởng của trifluralin đối với sức khỏe con người đều không cho thấy bằng chứng rõ ràng rằng trifluralin có liên quan đến ung thư. Tuy nhiên, dựa trên những phát hiện từ các nghiên cứu trên động vật, các nhà nghiên cứu vẫn tin rằng trifluralin gây ung thư ở người. Do đó, nhiều quốc gia đã cấm hoặc hạn chế sử dụng nó. Hầu hết các quốc gia ở Châu Âu, Mỹ và Nhật Bản quy định rằng dư lượng trifluralin trong thịt không được vượt quá 10 μg / kg và trong thịt cá không được vượt quá 1 μg / kg. Mức trifluralin trong tiêu chuẩn nước uống phải nhỏ hơn 5 µg / kg.

Việt Nam cấm sử dụng trifluralin trong nuôi trồng thủy sản theo Thông tư số 20/2010 / tt-bnnptnt ngày 2 tháng 4 năm 2010 và Bộ Nông nghiệp-ptnt tiếp tục ra thông báo vào ngày 4 tháng 11 năm 2010. 64/2010 / tt-bnnptnt về việc loại bỏ sản phẩm có chứa trifluralin ra khỏi danh mục sản phẩm xử lý, cải tạo môi trường nuôi trồng thủy sản được phép lưu hành tại Việt Nam (xem website www.khuyennong.binhthuan.gov.vn)

Kết luận, trifluralin rất độc đối với sức khỏe con người và động vật, và dư lượng của nó trong môi trường có thể ảnh hưởng đến đa dạng sinh học. Vì vậy, hóa chất không được sử dụng trong sản xuất nông nghiệp.

Để lại một bình luận

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *