VÔ SINH PHÁP NHẪN LÀ GÌ ? | Duy Lực Thiền

Khái niệm về sự bất tử

Thuốc lá Pháp vô sinh (tiếng Phạn: anutpattika-Dharma-kṣānti) là một thuật ngữ Phật giáo có nguồn gốc từ tập thứ 449 của Kinh Đại Bát Niết Bàn.

bất sinh có nghĩa là không có sự phát sinh, không có sự khởi đầu, không có sự sinh ra của bất kỳ thứ gì, và có nghĩa là không có thật cũng không có giả. Đó là trạng thái tuyệt đối bất nhị, bất biến, bất di bất dịch, bất biến. Trạng thái này được gọi là Pháp Luân. Nhẫn là bất biến, bất di, bất dịch, bất biến. Từ này dùng để diễn tả tâm bất nhị, không sinh, không diệt, tâm bất biến.

Người Phật tử phải khám phá tâm này, là nguồn gốc thực sự của vũ trụ. Trong lịch sử Thiền tông, Dongshan Longjue (807-869), khi kiến ​​tánh có câu:

Đừng tìm anh ấy, tôi rất ngại tìm người khác

Tôi ở rất xa tôi, vì vậy sự ích kỷ xấu xa ở xa tôi

Tôi đang rơi một mình, bây giờ tôi đang đến

Có kênh rạch ở khắp mọi nơi và nơi nào cũng có những địa điểm may mắn

Là tôi, là tôi, là tôi, là tôi

Tôi không phải là người giỏi nhất Tôi không phải là người giỏi nhất Tôi không phải là người giỏi nhất

Nếu bạn là một nhà sư, bạn phải được giác ngộ như thế này

Hợp đồng tốt như luật, luật mới và nó tốt như nó là tốt

Nhà tâm linh đã giảng như sau (câu 1242)

1242 Xin Sư phụ giải thích những bài thơ của ông Dongshan Longjue

Tâm trí này là vô hình, vô hình, vô hình, vì vậy nó không thể nắm bắt, nó không thể xác định, tư duy của bộ não con người không thể hình dung nó, và nó không thể hiểu được. Vì vậy, các thiền sư đưa ra những nguyên tắc sau: Phương pháp giảng dạy là bất thành văn. Ngôn ngữ hữu hạn, nó diễn đạt một khái niệm về ý thức, tức là tưởng tượng, suy nghĩ, suy nghĩ và tâm trí là một thực thể phi vật chất, thực tại vô hình là không giới hạn.

Từ thời Đức Phật, không phải là không có lời nói, chỉ là Đức Phật không cho phép ghi chép. Để hiểu rằng Phật giáo không có ghi chép nào trong thời Đức Phật còn tại thế và hàng trăm năm sau khi Đức Phật nhập diệt, chúng ta cần nhìn vào lịch sử kinh điển Tây Tạng.

Ngôn ngữ Phật giáo và kinh Phật

Theo các nhà nghiên cứu Phật giáo, Đức Phật Thích Ca đã sử dụng magadhi để thuyết giảng. Magadhi là ngôn ngữ của nước Magadha (ma kiet da madha) ở trung lưu sông Hằng.

Đây là vùng đất Magadha, ngày nay là bang Bihar của Ấn Độ, nơi tọa lạc của Bồ Đề Đạo Tràng.

Vương quốc Magadha (Kiệt tác của loài ngựa)

Nhiều sắc lệnh của Ashoka được khắc trên những phiến đá lớn, và những cột trụ lớn được tìm thấy cho chúng ta biết ngôn ngữ mà Đức Phật đã nói.

Trụ cột của Ashoka được khắc trong Magadi

Vào thời Đức Phật Thích Ca, có kinh Vệ Đà, xuất hiện muộn nhất vào khoảng năm 1500 trước Công Nguyên, kinh điển của Bà La Môn giáo, được truyền bá bằng tiếng Phạn – vedic – đà (vedic sanskrit). Các nhà khảo cổ đã phát hiện ra kinh sách được viết vào khoảng năm 1500 trước Công nguyên. Kinh Veda sử dụng cả tiếng Phạn Vệ Đà và tiếng Phạn Cổ điển, là những ngôn ngữ rất tao nhã, linh hoạt và tinh vi dành cho các tầng lớp trên của xã hội. Mặc dù magadhi là ngôn ngữ của người dân thường, ngôn ngữ này đã có một hệ thống chữ viết khá hoàn chỉnh dưới thời trị vì của Vua Yaduk (304-232 TCN).

Đoạn văn sau đây trong Luật tạng cho chúng ta thấy rõ quan điểm của Đức Phật về ngôn ngữ kinh điển: “Lúc bấy giờ, có hai vị tỳ kheo tên là Yamuru và Dracula, anh em cùng huyết thống. Bà la môn ăn nói nhẹ nhàng, giọng nói là ngọt ngào Họ đến yết kiến ​​Đức Thế Tôn, đến nơi thì đảnh lễ Hòa thượng rồi ngồi xuống một bên, khi họ ngồi một bên thì các vị sư thưa với Đức Thế Tôn:

– Thưa ngài, hiện nay các tu sĩ có tên khác nhau, có dòng máu khác nhau, có đẳng cấp khác nhau, có gia tộc khác nhau. Họ phá hoại những lời dạy của Đức Phật bằng chính phương ngữ của họ. Thưa Ngài, chúng ta hãy diễn đạt những lời dạy của Đức Phật. “

Dịch những lời dạy của Đức Phật sang dạng vần có âm tiết, tức là sử dụng ngôn ngữ Vedic Sanskrit dành riêng cho các tầng lớp Bà la môn – những môn học mà hầu hết những người bình thường thuộc tầng lớp thấp hơn không được học. Vì vậy, Đức Phật lập tức bác bỏ đề nghị của hai vị Tỳ kheo. Anh ta lên án:

“Này kẻ ngốc, tại sao bạn lại nói: ‘Thưa Ngài, chúng ta hãy diễn đạt lời dạy của Đức Phật thành lời? Đức tin.’

“Này các Tỳ kheo, tôi cho phép học những lời dạy của Đức Phật bằng ngôn ngữ của họ.”

Đức Phật thường lặp lại rằng cho dù sự giác ngộ cuối cùng được viết ra hay không, hành giả phải bỏ tất cả ngôn từ và ngôn ngữ để đạt được sự giác ngộ cuối cùng, và mục từ là “shi”. Một “học viên” người khăng khăng muốn thực hành để đạt được “giác ngộ”. Lúc đó Ngài quở trách những người tu học, chỉ ham học thuộc vẹt, không thực hành, cho là vô ích, gọi là đa văn, cho là xấu, người như vậy không vào được Đạo. Khi còn sống, vì không muốn đệ tử dính mắc vào lời nói, nên Ngài đã từng nói: “Bốn mươi chín năm rồi, ta không nói một lời.” (“Kinh Kim Cang”), “Điều ta nói không phải. thật. “(Kinh):” Từ đêm Đại Tỉnh Thức đến đêm Niết Bàn, trong suốt thời gian ấy, tôi không hề thốt ra một lời nào, tôi cũng không nói và cũng không nói. Không thuyết nào là đạo Phật. “(Cổ Mộ ) …

Vì vậy, khi Đức Phật còn sống, không có kinh sách bằng văn bản trong Phật giáo. Đức Phật thuyết giảng bằng tiếng Magadhi (ma kiet da Magadha), một ngôn ngữ của vương quốc Ma kiet, mà các đệ tử của Ngài đã hiểu và truyền đạt cho các tín đồ bằng nhiều ngôn ngữ địa phương.

Ba tháng sau khi Đức Phật nhập diệt, các nhà sư tổ chức lễ puja đầu tiên ở ngoại ô Raja Sherpa, do Big Cassava chủ trì và Ananda đọc lại. Kỷ luật. Vào thời Đức Phật, tại Ấn Độ, mặc dù có những sách Vệ Đà cao quý, nhưng có một thời, Đại đức Ameru và Tegura xin phép Đức Phật dùng bản văn trên để ghi lại các bài giảng, nhưng Đức Phật không đồng ý vì Kinh sách chỉ là một phương tiện, kẻo người ta dính mắc vào phương tiện mà quên mất mục đích, nên những lời dạy của Đức Phật chỉ có thể được các nhà sư tụng đọc và truyền khẩu. Tập hợp có nghĩa là tập hợp lại với nhau, cùng đọc lại và cùng nhau xem xét tính nhất quán. Sau bộ này, tóm tắt các kinh điển và luật. Có bốn bộ kinh: dài, trung bình, tương tự và dày đặc. Tuy đã kết thúc nhưng bản kinh vẫn chưa được hoàn thành.

Một trăm năm sau, một đại hội giáo luật thứ hai được tổ chức tại các lâu đài của vesali (b Tỳ-kheo-ni) và vajji (Tỳ khưu), với sự tham dự của khoảng 700 nhà sư. Lần này, Canon có thêm một tiểu mục. Giới Luật được giữ gìn với 10 giới căn bản. Trong cuộc họp này, có sự phân hóa của hai khuynh hướng, một là bảo thủ, giữ giới nguyên thủy, tức là khuynh hướng của các bậc trưởng lão thuyết giảng (sthaviravada hay sthaviravadin – còn gọi là tu sĩ giáo lý). Người xưa còn được gọi là Giáo lý Nguyên thủy hay Nguyên thủy), xu hướng thứ hai là cải cách giới luật Đại thừa (mahasanghika). Canon đã không viết ra nó kể từ lần biên soạn thứ hai của Canon.

130 năm sau, dưới triều đại của Vua Asoka (Asoka 268-232 bc), một đại hội giáo luật thứ ba được tổ chức, do nhà sư Jianlian (moggaliputta tissa) lãnh đạo với khoảng 1000 tu sĩ. Bộ kinh vẫn là 5 bộ kinh trong hai tập đầu, nhưng một số lời Phật dạy về tâm, tánh, và tất cả các pháp được tách ra để tạo thành diệu pháp, còn gọi là phương kính hay phương kính. Bình luận. . Vua A Dục rất yêu mến đạo Phật, ông đã cử 9 phái đoàn truyền bá đạo Phật sang các nước lân cận, trong đó có hai phái đoàn do các nhà sư Uttara và Sona dẫn đầu, đã đi đường biển đến suvannabhumi (vùng đất vàng ngày nay, cụ thể là Thái Lan) để hoằng pháp ở Thái Lan và Miến Điện. lịch sử ghi lại công việc của phái đoàn này. Năm 240 trước Công nguyên, một phái đoàn khác do Mahada, con trai vua A Dục dẫn đầu, đến Vương quốc của Hồng vương Phạm Lang. Trong phái đoàn có Pháp vương Mahinda, hoàng tử của nhà vua, đã đến Sri Lanka (nay là Sri Lanka) để thuyết giảng Phật pháp cùng với bốn nhà sư khác. Mahinda đã xây dựng Đại Tự viện (mahavihara) với sự giúp đỡ của vua Sri Lanka, và từ đó nó phát triển thành Mahavihāravāsins. Đây là một trong những giáo phái Nam Tông xuất hiện đầu tiên ở Sri Lanka sau đó được truyền bá rộng rãi sang nhiều nước trong khu vực Đông Nam Á. Ngày nay, Phật giáo Nguyên thủy vẫn còn phổ biến ở Sri Lanka và Đông Nam Á. Phật giáo Nam tông còn được gọi là Phật giáo Nam tông ở Việt Nam, mặc dù trên thực tế Phật giáo Nam tông được hình thành khi Phật giáo tách thành các tông phái trong kỳ kết hội thứ hai sau Đức Phật. 100 năm tuyệt chủng.

Hiệp hội Phật giáo Thế giới thống nhất rằng năm 624 trước Công nguyên là năm sinh của Gautama Siddhartha Sakyamuni, ông sống đến 80 tuổi, nên viên tịch vào năm 544 trước Công nguyên, đó là thời kỳ đầu của Đức Phật. Phật lịch, nay là 2019, Phật lịch là 2563.

Khoảng 20 năm qua (20 năm trước Công nguyên_20 năm trước công nguyên, tức là 524 năm Phật lịch, 524 năm Đức Phật nhập diệt), khoảng 500 nhà sư thuộc giáo phái Đại thừa đã tụ họp lại với nhau, do Vua Watagamani triệu hồi. . Tiệc cổ điển lần thứ 4, ở Sri Lanka. Điểm rất đặc biệt là trong bộ sưu tập này, sau hơn 500 năm truyền khẩu, những tác phẩm kinh điển lần đầu tiên được viết bằng chữ trên lá tre.

2000 năm trước Kinh Phật trên lá tre được tìm thấy ở Afghanistan, gần 2 tượng Phật bị phá hủy

Lá cọ là một loại vật liệu dùng để chép kinh

Chữ viết tay cổ điển trên lá tre

Đây là bước đầu tiên trong việc hình thành Đại Tạng Kinh, bộ Đại Tạng Kinh gồm 5 bộ nói trên, riêng nhóm đã có 15 quyển. vinaya vinaya gồm 5 cuốn: giới căn bản, giới nhỏ, phẩm lớn, tiểu luận, séances và truyền pháp. Cơ quan thứ ba là Thắng pháp hay Luận tạng (adbidammapitaka) gồm 7 nhóm cơ bản. Ngôn ngữ được sử dụng cho hồ sơ là tiếng Pali, là tiếng Paishaki ở miền tây Ấn Độ, đã phát triển thành tiếng Pali thường được sử dụng ở Cao nguyên Deccan và miền nam Ấn Độ cách đây một trăm năm, và cũng là một ngôn ngữ từ Mahinda đến Sri Lanka. Đây là bộ kinh Phật thuộc hệ phái Nam Tông, được truyền bá ở các nước phía Nam nên còn được gọi là Nam truyền như Tích Lan, Mianma, Thái Lan, Lào, Campuchia, và miền nam Việt Nam.

Đại thừa và Khoa học

Trong suốt lịch sử của Tứ Tạng, Pháp mới được ghi lại bằng văn bản hơn 500 năm sau khi Đức Phật nhập diệt. Bắt đầu từ bộ kinh thứ hai, 100 năm sau khi Đức Phật nhập diệt, giáo lý được chia thành hai trường phái chính: Nguyên thủy (sthaviravada), hay còn gọi là Phật giáo Nguyên thủy, chủ trương giữ nguyên giới luật và các luật lệ và giáo lý như xưa. Còn lại là Phật giáo Đại thừa, chủ trương cải cách để thích ứng với thời đại. Mặt khác, trong lần kết tập thứ ba, các nhà sư tách những phần bí truyền nhất của kinh điển để tạo thành bộ kinh, còn được gọi là Bộ luật Victoria hay Bộ luật siêu phàm. Kể từ đó, giáo luật được chia thành ba phần rõ rệt: giáo điển, bao gồm những giáo lý nguyên thủy với lẽ thường, giới luật, là những quy định và cách giải thích giới luật, và giáo luật, phần cao siêu của Giáo pháp. Ý nghĩa cuối cùng của lời dạy của Đức Phật. Ý nghĩa trung tâm của Phật giáo là tâm, tức là tánh không (năm uẩn). Đây là chủ đề của bài viết này, rằng Pháp Luân vô hồn cũng là tâm. Đầu Rồng Bồ tát cho rằng tâm trống không và vô nghĩa, tâm trống không và không thật, nhưng có thể tạo ra tất cả các cảnh giới, từ cảnh giới sắc đến cảnh giới tâm, có thể tóm gọn trong câu “ngũ uẩn giai không. trống rỗng”. Tánh không là năm uẩn: sắc (sắc), thọ (thọ), tưởng (suy, nghĩ), hành (hành), thức (phân biệt). là không thực.

<3 hình ảnh "(tất cả các điều kiện như mộng, bong bóng, sương và điện phải được xem xét)

Pháp có điều kiện là Pháp được tạo ra, tức là sinh, lão, bệnh, tử, v.v. của sinh tử. Điều hòa là do các cử động gây ra ảo tưởng, không phải là ảo tưởng thực sự. Ví dụ, sự chuyển động của các electron khiến chúng ta nghĩ rằng có các nguyên tử. Nhưng bản thân các hạt cơ bản, chẳng hạn như photon, electron và quark, cũng là tưởng tượng, không có thật. Trong thí nghiệm khe đôi, các nhà khoa học đã chỉ ra rằng các electron chỉ nổi lên khi có mặt người quan sát. Và khi không có ai nhìn, các electron chỉ là sóng, không liên quan, không có vị trí xác định.

Hai nhà khoa học hàng đầu thế giới là Niels Bohr và Albert Einstein đã tranh luận quyết liệt về vấn đề hạt cơ bản của vật chất, cụ thể là hạt photon hoặc hạt electron có sẵn đặc trưng hay không. Einstein cho rằng hạt cơ bản như photon, electron là có thật, là khách quan luôn có sẵn đặc trưng. Lập trường của Bohr gần với Phật giáo hơn nói rằng hạt cơ bản chỉ xuất hiện khi có người quan sát, nếu không có ai quan sát thì hạt cơ bản chỉ là hạt ảo, trừu tượng (Phật pháp nói Nhất thiết pháp vô tự tính, ý nói hạt electron không có sẵn đặc trưng). Niels Bohr nói “Isolated material particles are abstractions” (Hạt vật chất cơ bản cô lập thì trừu tượng- tức không phải vật thật). Còn Einstein thì nói rằng :

“Tôi thích nghĩ rằng mặt trăng vẫn ở đó, ngay cả khi tôi không nhìn vào nó”

Đây là một vị trí thực tế khách quan, mà Alan đã chứng minh là sai khi sử dụng bất đẳng thức John Bell kết hợp với thí nghiệm rối lượng tử Paris năm 1982. Đó là cứu cánh của chủ nghĩa duy vật khách quan, nhưng vì có rất ít người hiểu được lập trường của Bohr, tức là lời dạy của Đức Phật, nên đại đa số mọi người vẫn biết rõ về Einstein và tin ông. Einstein nghĩ nhiều hơn, và ít người biết về Bohr. Người trên đời không thể hiểu nổi tại sao vật chất chỉ là ảo ảnh vừa không có thực vừa không thể tin được. Einstein hoàn toàn không tin vào cơ học lượng tử, cho rằng nó là sai sót, thậm chí là sai sót. Đây là lý do tại sao vào năm 1935, albert einstein , boris podolsky và nathan rosen (epr) đã xuất bản một bài báo trên tạp chí Physical Review nói rằng sau này thường được gọi là nghịch lý epr. Mục đích của chúng là bác bỏ cơ học lượng tử.

Và Bohr nói, “Mọi thứ chúng ta gọi là thực đều được tạo nên từ những thứ không nên có thật. Nếu cơ học lượng tử không thổi bay bạn, bạn sẽ không hiểu nó.”

Nhưng kết quả của nhóm epr là họ không bác bỏ cơ học lượng tử, mà đẩy nhanh sự phát triển của nó, bởi vì có nhiều người đang cố gắng giải quyết tính đúng sai của hai vị trí khác nhau này, đây cũng là một khía cạnh tích cực của giả thuyết epr . Điện thoại thông minh chúng ta sử dụng hàng ngày là kết quả của cơ học lượng tử, nơi các electron và photon đều là sóng và hạt, không cục bộ và không có vị trí xác định trong không gian.

Đó là lý do tại sao trong thời đại điện thoại thông minh ngày nay, thông tin như hình ảnh, văn bản, âm thanh và video đã được số hóa. Chúng trở thành những con số, rất nhiều số và phát sóng dưới dạng sóng wifi, 3g, 4g, 5g. Làn sóng đó là vô hình và ở khắp mọi nơi. Chỉ khi điện thoại thông minh của chúng ta bắt được sóng đó thì sóng mới biến thành các hạt, xuất hiện trên màn hình, chuyển thành các bài báo, hình ảnh, video hoặc phát dưới dạng sóng âm thanh qua loa mà chúng ta nghe thấy trong tai.

Kết luận

Một số nhà khoa học còn đi xa hơn, cho rằng bản chất cơ bản của vũ trụ không phải là vật chất hay năng lượng. Vật chất hay năng lượng chỉ là hình thức biểu hiện, còn bản chất của vạn vật là thông tin, cũng là ý thức duy nhất trong Phật giáo, ý thức cũng là tâm, còn tâm là hư vô. Đó là điều kỳ diệu của chiếc nhẫn.

Tin học được phát triển trong thời đại của máy tính điện tử. Chip vi xử lý ngày càng có nhiều bóng bán dẫn trên một đơn vị diện tích, đồng nghĩa với việc khoảng cách giữa các bóng bán dẫn ngày càng nhỏ và hiện nay (cuối năm 2019) người ta đã chế tạo ra những con chip chỉ có 7 nanomet (nm) giữa các bóng bán dẫn, và đang tìm kiếm giảm nó xuống chỉ còn 5 nm. Con chip Snapdragon 875 được Qualcomm phát hành vào năm 2021 vẫn sẽ được sản xuất bởi TSMC (công ty xử lý chip lớn nhất thế giới) và sẽ sử dụng quy trình 5nm. Báo cáo cho biết thêm rằng chip Snapdragon 875 sẽ được sản xuất bằng quy trình 5nm của TSMC. Vì vậy, Snapdragon 875 sẽ có 171,3 triệu bóng bán dẫn trên mỗi milimét vuông.

Nhưng hiện nay các nhà khoa học đang phát triển máy tính lượng tử với tốc độ xử lý nhanh hơn, dựa trên các nguyên tắc khác với máy tính điện tử. Máy tính điện tử là một đơn vị thông tin dựa trên bit. Bit chỉ có hai giá trị, 0 và 1. Máy tính lượng tử dựa trên các bit lượng tử. Giá trị qubit thứ ba và thứ tư trùng nhau giữa 0 và 1, ngoại trừ hai giá trị 0 và 1.

Trong Phật giáo, có quan niệm về bốn câu (4 câu). Bốn câu là bốn mệnh đề hợp lý: có, không, có và không, không cũng không.

qubit là ứng dụng của quaternion trong tin học. Bốn mệnh đề logic của Phật pháp được ứng dụng vào thực tế cuộc sống với công nghệ phi thường, giúp tăng tốc độ xử lý thông tin một cách đáng kể. Mô tả nhanh hơn về điều này như sau: trong số hàng tỷ lựa chọn, chỉ có 1 lựa chọn đúng. Một máy tính điện tử phải so sánh tiêu chuẩn chính xác hàng tỷ lần để tìm ra tiêu chuẩn chính xác. Máy tính lượng tử có thể so sánh hàng tỷ lựa chọn đồng thời, vì vậy chúng có thể phát hiện ra lựa chọn chính xác ngay lập tức. Đây được gọi là quyền tối cao lượng tử hoặc quyền tối cao lượng tử.

Vào ngày 23 tháng 10 năm 2019, Google đã thông báo rằng máy tính lượng tử sycamore có lợi thế lượng tử tuyệt đối, tức là ưu thế lượng tử so với máy tính điện tử. Cụ thể, sycamore có thể giải quyết một vấn đề có thể mất 10.000 năm đối với siêu máy tính hàng đầu của Mỹ nhanh nhất thế giới hiện nay, trong khi sycamore giải quyết nó chỉ trong 200 giây. cây sung có khả năng xử lý 53 qubit.

Máy tính lượng tử công nghiệp

53 qubit tạo thành phần tử xử lý dữ liệu cơ bản ở lõi của hệ thống (53 qubit là đơn vị dữ liệu cơ bản ở lõi của hệ thống, chip vi xử lý). Đối với máy tính điện tử, chúng ta đã quen thuộc với khái niệm vi xử lý 32 bit và 64 bit.

Có một câu trong Kinh Hoa Nghiêm:

Nếu bạn muốn biết rõ ràng, nếu bạn muốn biết

Tất cả chư Phật trong ba kiếp, tất cả chư Phật trong ba kiếp, tất cả chư Phật trong ba kiếp (quá khứ, hiện tại, vị lai)

Thế giới luật pháp cần được tuân thủ và bản chất luật pháp phải phù hợp với thế giới luật pháp

Mọi thứ đều được làm bằng trái tim và mọi thứ đều được làm bằng trái tim

Thế giới pháp lý là gì? Pháp giới bao gồm ba cõi (cõi dục vọng, cõi sắc và cõi vô sắc). Vạn vật đều vô căn trong tâm, cũng là tánh không (phi thực); không có thời gian và không gian (không có địa), không có giới hạn (không giới hạn)] nên pháp giới là bình đẳng, mọi nơi đều như nhau, vạn vật đều như nhau. như nhau.

Pháp được đề cập trong văn bản cũng là vô tri. Pháp Luân có nghĩa là tất cả các Pháp đều là ảo và không có gì là thực, kể cả thế giới vật chất trong cuộc sống hàng ngày của chúng. sinh ra.

Vậy, Pháp Luân sẽ được áp dụng như thế nào trong cuộc sống hàng ngày?

Đó là khi tin học phát triển đến một trình độ cao và con người đã phát minh ra máy tính lượng tử có thể xử lý nhanh hơn hàng tỷ lần so với ngày nay. Máy tính đó có thể phân tích tất cả các vật thể bao gồm cả 4 nguyên tố của cơ thể con người thành lượng tử, di chuyển đến bất kỳ nơi nào, khoảng cách nào, miễn là một khoảnh khắc, cho dù nó ở cách xa hàng vạn dặm, vạn năm ánh sáng, thông qua phương pháp lượng tử. ràng buộc, và sau đó Nhóm lại vào cùng một đối tượng. Nói một cách chính xác, không có chuyển động, mọi thứ biến mất ở một nơi và ngay lập tức xuất hiện ở một nơi khác. Đây được gọi là dịch chuyển lượng tử, như trong video dưới đây.

Dịch chuyển lượng tử – dịch chuyển các vật thể ở xa

Mặt khác, trình độ in 3D đã đạt đến mức phi thường, có thể sử dụng ánh sáng mặt trời làm nguyên liệu thô và nguồn năng lượng để in mọi thứ con người cần, từ nhà cửa, xe cộ, thực phẩm, sản phẩm cho đến các nhu cầu thiết yếu hàng ngày, Không giới hạn, đáp ứng đủ nhu cầu của mọi người, không cần ai cạnh tranh. Nó hoàn toàn có thể được chuyển đổi thành phế phẩm để tái sử dụng lượng tử, để trái đất sẽ không còn rác.

Pháp Luân có thể giúp mọi người đi đến cảnh giới đó không? Chúng ta hãy đợi và xem.

Thông tin liên lạc

Để lại một bình luận

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *