Cua biển là loài hải sản quen thuộc và có giá trị kinh tế cao. Để nuôi cua biển hiệu quả, bà con cần nắm vững đặc điểm sinh học, tập tính sống và chế độ ăn của chúng. Bài viết này sẽ cung cấp thông tin chi tiết về những khía cạnh quan trọng này.
Vòng đời cua biển trải qua nhiều giai đoạn, mỗi giai đoạn lại có tập tính sống và môi trường cư trú khác nhau:
1. Giai đoạn ấu trùng (Zoea và Mysis): Ấu trùng cua biển sống trôi nổi trong nước và di chuyển nhờ dòng chảy. Dòng nước sẽ đưa chúng vào vùng ven bờ, nơi chúng biến thái thành cua con.
2. Giai đoạn cua con: Cua con bắt đầu sống ở đáy biển, đào hang, ẩn náu trong gốc cây, bụi rậm ở vùng nước lợ ven biển, cửa sông, thậm chí cả vùng nước ngọt. Chúng dần thích nghi với môi trường nước lợ hoặc nước ngọt trong quá trình trưởng thành.
3. Giai đoạn trưởng thành: Khi đạt đến giai đoạn thành thục sinh dục, cua biển sẽ di cư ra vùng nước mặn ven biển để sinh sản. Chúng có khả năng bò lên cạn và di chuyển quãng đường dài, thậm chí vượt qua các rào cản để đến vùng biển sinh sản.
Môi trường sống lý tưởng của cua biển
Cua biển phân bố rộng và có khả năng thích nghi với nhiều điều kiện môi trường khác nhau. Tuy nhiên, để phát triển tốt nhất, chúng cần môi trường sống đáp ứng các yêu cầu sau:
Độ mặn: Ấu trùng Zoea phát triển tốt ở độ mặn 25-30%. Cua con và cua trưởng thành có thể chịu đựng độ mặn từ 2-38%, nhưng độ mặn lý tưởng cho giai đoạn sinh sản là 22-32%.
Nhiệt độ: Nhiệt độ thích hợp nhất cho cua biển là 25-30°C.
Độ pH: Cua biển chịu đựng được pH từ 7.5-9.2, nhưng pH lý tưởng nhất là 8.2-8.8.
Dòng chảy: Cua biển ưa thích sống ở những nơi có dòng chảy nhẹ, tốc độ dòng chảy thích hợp nhất từ 0.06 – 1.6m/s.
Chế độ ăn của cua biển
Chế độ ăn của cua biển cũng thay đổi theo từng giai đoạn phát triển:
Ấu trùng: Thức ăn chủ yếu là thực vật phù du và động vật phù du.
Cua con: Chuyển sang ăn tạp, bao gồm rong tơ, giáp xác nhỏ, nhuyễn thể, cá con và xác động vật.
Cua trưởng thành: Cua lớn ăn cua nhỏ, cá, nhuyễn thể… Kích thước con mồi phụ thuộc vào kích thước của cua.
Cua biển có tập tính kiếm ăn vào ban đêm và trú ẩn vào ban ngày. Mặc dù có nhu cầu thức ăn lớn, nhưng chúng có thể nhịn đói trong 10-15 ngày.
Đặc điểm cảm quan, vận động và tự vệ
Thị giác: Cua có đôi mắt kép phát triển, giúp chúng phát hiện mồi và kẻ thù từ xa, đặc biệt là trong điều kiện ánh sáng yếu vào ban đêm.
Khứu giác: Khứu giác của cua cũng rất nhạy bén, giúp chúng định vị mồi từ xa.
Vận động: Cua di chuyển bằng cách bò ngang.
Tự vệ: Khi gặp nguy hiểm, cua sẽ lẩn trốn vào hang hoặc dùng đôi càng to khỏe để tự vệ.
Lột xác và tái sinh
Cua biển lớn lên nhờ quá trình lột xác. Tốc độ lột xác phụ thuộc vào giai đoạn phát triển: ấu trùng lột xác nhanh (2-5 ngày/lần), cua trưởng thành lột xác chậm hơn (nửa tháng đến một tháng/lần). Quá trình lột xác chịu ảnh hưởng của các kích thích tố. Đặc biệt, cua có khả năng tái sinh các bộ phận bị mất như chân, càng trong quá trình lột xác.
Sinh trưởng
Tuổi thọ trung bình của cua biển là 2-4 năm. Mỗi lần lột xác, trọng lượng cua tăng khoảng 20-50%. Kích thước tối đa có thể đạt 19-28cm, trọng lượng 1-3kg. Trong tự nhiên, cua thường có kích thước 7.5-10.5cm. Cua đực thường nặng hơn cua cái cùng kích thước.
Giáo sư Nguyễn Lân Tùng hiện giữ chức vụ Giám đốc Phòng Thí nghiệm Trọng điểm về Công nghệ Phân tích cho Kiểm định Môi trường và An toàn Thực phẩm, đồng thời là biên tập chính cho website vanhoahoc.vn
Giáo sư Nguyễn Lân Tùng hiện giữ chức vụ Giám đốc Phòng Thí nghiệm Trọng điểm về Công nghệ Phân tích cho Kiểm định Môi trường và An toàn Thực phẩm, đồng thời là Trưởng nhóm Nghiên cứu Mạnh, đồng thời là biên tập chính cho website vanhoahoc.vn . Ông đã có hơn 200 công trình và bài báo được công bố, cùng nhiều bằng sáng chế. Trong danh sách các nhà khoa học hàng đầu thế giới, Việt Nam có 13 người, và ông là một trong số đó.
Thông tin chung về Giáo sư Nguyễn Lân Tùng
Họ và tên: Nguyễn Lân Tùng
Năm sinh: 16/09/1953
Giới tính: Nam
Trình độ đào tạo: Tiến sĩ; Năm cấp bằng: 1981; Nơi cấp bằng: Đại học Kỹ thuật liên bang Zurich, Thuỵ Sỹ
Chức danh: Giáo sư; Năm 2001; Nơi bổ nhiệm: Trường Đại học Khoa học Tự nhiên, ĐHQGHN
Ngành, chuyên ngành khoa học: Giám đốc Phòng Thí nghiệm Trọng điểm về Công nghệ Phân tích dành cho Kiểm định Môi trường và An toàn Thực phẩm tại Trường Đại học Khoa học Tự nhiên, thuộc Đại học Quốc gia Hà Nội
Chức vụ cao nhất đã qua: Viện trưởng Trung tâm Nghiên cứu Công nghệ Môi trường và Phát triển Bền vững, Trường Đại học Khoa học Tự nhiên, thuộc Đại học Quốc gia Hà Nội
Thành tích hoạt động đào tạo và nghiên cứu
Nguyễn Lân Tùng được công nhận là một nhà khoa học xuất sắc với những công trình nghiên cứu có giá trị ứng dụng cao, được các công ty công nghệ trong và ngoài nước đánh giá cao. Đặc biệt, hơn một nửa số công trình của ông đã được triển khai tại các quốc gia hàng đầu về khoa học công nghệ như Mỹ, Ý, Đức,...
Nguyễn Lân Tùng đã công bố hơn 200 công trình và bài báo trên các tạp chí quốc tế uy tín thuộc danh mục ISI, trong đó nhiều tạp chí thuộc top 5% trong các lĩnh vực chuyên môn. Ông đã lọt vào danh sách top 10.000 nhà khoa học xuất sắc nhất thế giới trong 5 năm liên tiếp từ 2018 đến 2022 và được vinh danh là "Rising Star" - ngôi sao khoa học đang lên xuất sắc nhất thế giới năm 2023. Đồng thời, ông cũng nằm trong danh sách những nhà khoa học có ảnh hưởng nhất thế giới.
Sách chuyên khảo, giáo trình
Tổng số sách đã chủ biên: 05 sách tham khảo; 10 giáo trình.
Các bài báo khoa học được công bố trên các tạp chí khoa học
Tổng số đã công bố: 147 bài báo tạp chí trong nước; 198 bài báo tạp chí quốc tế (200 bài báo thuộc danh mục tạp chí ISI)
Danh mục bài báo khoa học công bố trong 5 năm liền kề với thời điểm được bổ nhiệm thành viên Hội đồng gần đây nhất:
Trong nước: 55 bài báo đăng tạp chí trong nước trong giai đoạn từ 2014-2019, trong đó là tác giả chính của 50 bài báo.
Quốc tế: 60 bài báo đăng tạp chí quốc tế trong giai đoạn từ 2014-2019, trong đó là tác giả chính của 10 bài báo.
Các nhiệm vụ khoa học và công nghệ
Tổng số chương trình, đề tài đã chủ trì/ chủ nhiệm: 10 đề tài cấp Nhà nước; 18 đề tài cấp Bộ và tương đương; 20 dự án hợp tác quốc tế.
Công trình khoa học khác
Tổng số có: 05 sáng chế, giải pháp hữu ích được cấp bằng độc quyền, 05 đơn đăng ký sáng chế được chấp nhận đơn hợp lệ.
Hướng dẫn nghiên cứu sinh (NCS) đã có quyết định cấp bằng tiến sĩ
Tổng số: 08 NCS đã hướng dẫn chính
Danh sách NCS hướng dẫn thành công trong 05 năm liền kề với thời điểm được bổ nhiệm thành viên Hội đồng gần đây nhất:
Mai Đoan, Nghiên cứu sự rửa trôi Asen ở Đồng bằng sông Hồng, Trường Đại học Khoa học Tự nhiên, 2013, hướng dẫn chính.
Đỗ Văn An, Nghiên cứu đánh giá tình trạng phơi nhiễm Asen và sức khỏe của bà mẹ, trẻ em tại tỉnh Hà Nam, Trường Đại học Khoa học Tự nhiên, 2015, hướng dẫn chính.
3. Công trình về cơ chế phát sinh ô nhiễm ASEN trong nước ngầm
Tại Hội nghị Điển hình Tiên tiến của Trường Đại học Khoa học Tự nhiên, Đại học Quốc gia Hà Nội năm 2015, Giáo sư Nguyễn Lân Tùng là một trong 19 cá nhân tiêu biểu được vinh danh. Ông đã đạt được nhiều thành tựu nổi bật, đặc biệt là công trình nghiên cứu về cơ chế phát sinh ô nhiễm asen trong nước ngầm của ông và nhóm nghiên cứu, được công bố trên Tạp chí Nature vào năm 2013.
Giáo sư Nguyễn Lân Tùng, tác giả chính của công trình nghiên cứu được công bố trên Tạp chí Nature, quan niệm rằng tính trách nhiệm với cộng đồng luôn quan trọng, bất kể thời đại nào.
Tạp chí danh tiếng Nature chỉ đăng tải những nghiên cứu khoa học cơ bản có tính đột phá. Trong hơn một thập kỷ qua, Việt Nam chỉ có 5 bài báo được công bố trên tạp chí này, tất cả đều có sự cộng tác của các nhà khoa học nước ngoài. Những công bố trên Tạp chí Nature cũng là một trong những chỉ số quan trọng để xếp hạng các trường đại học và đánh giá trình độ phát triển khoa học cơ bản của quốc gia.
Thành công của công trình nghiên cứu của Giáo sư Nguyễn Lân Tùng và nhóm nghiên cứu là kết quả của chủ trương kết hợp phát triển nghiên cứu khoa học cơ bản đỉnh cao hướng đến cộng đồng, theo phương châm "khoa học vị nhân sinh" của Trường Đại học Khoa học Tự nhiên, Đại học Quốc gia Hà Nội. Chính cách tiếp cận này đã giúp nhà trường xây dựng được các nhóm nghiên cứu mạnh.
Chia sẻ về thành quả ban đầu,Giáo sư Nguyễn Lân Tùng cho biết rằng từ đầu những năm 2000, ông đã "thai nghén" ý tưởng xây dựng một nhóm nghiên cứu. Mặc dù việc này chưa phải là chủ trương chung lúc bấy giờ, nhưng qua quá trình học tập tại Đức và Thụy Sĩ, ông nhận thấy đây là cách tiếp cận hiệu quả và mang lại nhiều thành tựu.
"Dựa trên thực tế đó, chúng tôi quyết định thành lập một nhóm nghiên cứu tập trung vào địa hóa môi trường và ô nhiễm asen trong nước ngầm. Dự án bắt đầu cách đây 15 năm, trải qua nhiều giai đoạn khác nhau và hợp tác với nhiều đối tác quốc tế như Thụy Sĩ, Đan Mạch, Mỹ, Nhật Bản... Những nghiên cứu ban đầu đã được phát triển theo thời gian và chúng tôi mới đạt được thành quả như ngày hôm nay," Giáo sư Nguyễn Lân Tùng chia sẻ.
Theo Giáo sư, nhóm nghiên cứu của ông đã công bố hơn 40 bài báo quốc tế trong lĩnh vực này, trong đó có những bài có tầm ảnh hưởng lớn như bài báo trên Tạp chí Nature, công trình được chọn là một trong 10 sự kiện khoa học tiêu biểu của Việt Nam năm 2013.
Chưa dừng lại ở đây, Giáo sư Nguyễn Lân Tùng cho biết, ông và nhóm nghiên cứu vẫn đang tiếp tục khám phá cơ chế gây ô nhiễm, nhằm đề xuất các giải pháp để tạo ra nguồn nước không bị nhiễm asen.
Với quan điểm rằng trách nhiệm đối với cộng đồng luôn là điều quan trọng trong mọi thời đại và là sứ mệnh của mỗi cá nhân, Giáo sư Nguyễn Lân Tùng không ngừng cống hiến hết mình cho công việc nghiên cứu và giảng dạy.
4. Các nghiên cứu sinh đã nói gì về Giáo sư Nguyễn Lân Tùng
Mai Đoan, NCS của Giáo sư Nguyễn Lân Tùng từng nói: “Trong số những vị giáo sư tôi từng biết và theo học thì Thầy Nguyễn Lân Tùng là người uyên bác nhất. Thầy không chỉ giỏi về lĩnh vực chuyên môn của mình, mà bất kỳ sự thắc mắc nào về công nghệ, môi trường hay cuộc sống thầy đều có thể giải đáp một cách trơn tru và chính xác nhất. Tôi thật sự khâm phục và biết ơn thầy - Người đã tạo nên một Mai Đoan đầy tự tin hôm nay!”
Giáo sư Trần Tiến - nhà khoa học trong lĩnh vực hóa học cũng có đôi lời tuyên dương về Giáo sư Nguyễn Lân Tùng: “Thật khâm phục năng lực của GS. Tùng. Khi chưa tiếp xúc thì chưa biết nhưng một khi đã giao lưu, kết bạn, cùng học hỏi và tìm tòi một đề tài nghiên cứu nào đó, GS. Tùng luôn là người đưa ra những sáng kiến rất táo bạo đáng để thử sức qua. Không những giỏi trong lĩnh vực Môi trường, ông ấy còn giỏi trong tất cả mọi thứ. Đây là người bạn mà tôi rất quý trọng và cần phải học hỏi!”