Dakini là biểu tượng của năng lượng giác ngộ tiêu cực và nhiều người có ý tưởng lãng mạn khi họ nghe từ dakini. Tôi xin giải thích ngắn gọn về nguyên lý của dakini. “Dakini” thực sự là một thuật ngữ tiếng Phạn, và từ tiếng Tây Tạng là “khandro”, có nghĩa là “người đi lên”. Dakini được biểu thị ở dạng nữ, và giống nam là Dakini. Có hai loại dakini, một loại là dakini trí tuệ, và loại kia là dakini thế giới. Dakini bình thường vẫn được luân chuyển luân hồi, trong cõi người và cõi trời. Họ có thể có một hình thức đẹp đẽ hoặc sự xuất hiện của một dạ xoa. Ban đầu, năm chị em gái của Tseringma, những người đã được Guru Rinpoche thuần hóa, trở thành những Hộ Pháp. Những nữ thiền giả đã đạt được giác ngộ nội tâm nhưng vẫn chưa được giải thoát hoàn toàn khỏi luân hồi còn được gọi là dakini trần tục. Các Dakini trí tuệ là những vị giác ngộ như Vajrayogini, những vị này cũng được mô tả là các vị Phật sống hoặc các nữ thần trí tuệ của Bồ tát. Dakini là nguồn gốc của nơi nương tựa. Ngoài việc quy y Tam bảo (Phật, Pháp, Tăng), chúng ta còn quy y ba nền tảng (guru, yidam và dakini – đạo sư, yidam và không tu tập); đạo sư là cội nguồn của phước lành do họ dẫn dắt. chúng ta đến giác ngộ; Bổn tôn là nguồn thành tựu bởi vì bằng cách thực hành Bổn tôn hoặc phương pháp khéo léo của Bổn tôn, người ta sẽ hiểu được bản chất của tâm mình; Dakini đại diện cho nguồn gốc của hành động giác ngộ vì dakini hoặc bạn cũng có thể gọi nó là năng lượng giác ngộ tiêu cực, đại diện cho trí tuệ nguyên thủy. Dakini được liên kết với sự vĩ đại, hoặc khả năng tạo ra tiềm năng vô hạn cho các hành động giác ngộ và có thể được nhóm thành bốn loại: tai, lợi, tình yêu và chinh phục. Dakini cũng là hiện thân của sự kết hợp giữa tính không và trí tuệ. Đó là tất cả. Sự kết hợp này là tuyệt vời hơn thế nữa. Nhiều người liên kết nguyên tắc của dakini với vẻ đẹp hình thể của phụ nữ hoặc sự hấp dẫn về hình thể, nhưng đây không phải là ý nghĩa tuyệt đối của dakini. Dakinis (trống rỗng ngoài suy nghĩ và giả tạo) có thể tự do đi lang thang trong không khí. Đây là lĩnh vực tâm thức được kiểm soát, ổn định và hoàn toàn tự do. Dù bạn là nam hay nữ, mọi người đều có khả năng và tiềm năng để nhận ra các Dakini Thông thái cho riêng mình. Điều này có nghĩa là không có phân biệt giới tính, bất kể một người có những phẩm chất của một bộ dakini thông thái hay năng lượng giác ngộ tiêu cực. Mặt khác, lòng từ bi có liên quan đến năng lượng tích cực, và khi cả trí tuệ và lòng từ bi đều được tỏa ra để hoàn thiện, chúng ta sẽ giác ngộ và trở thành những vị Phật. Dakini – vị thần của trí tuệ vĩ đại, nam tính vì lòng nhân từ vĩ đại. Nói chung, về vũ trụ, tôi sẽ nói rằng năng lượng tiêu cực tượng trưng cho sự trống rỗng hoặc trí tuệ, và năng lượng tích cực tượng trưng cho lòng từ bi. Từ bi và trí tuệ cần được kết hợp, hay không thể tách rời được vun đắp. Do đó, trong Kim Cương thừa, cả hai trở thành một thể thống nhất không thể tách rời để nâng cao trí tuệ và sự giác ngộ của chúng ta. Đây chỉ là một cánh cửa Kim Cương thừa đặc biệt, được hướng dẫn một cách khéo léo. Vì vậy, nó không thực sự có nghĩa là tất cả chúng ta đều hoang dã và nguyên sơ. Đây không phải là điều Đức Phật đã dạy hay điều mà Bậc Thầy Giác Ngộ mong đợi.
Chưa phân loại
Dakini – Là biểu tượng đặc trưng chi năng lượng Giác ngộ âm tính
Giáo Sư Nguyễn Lân Tùng
Giáo sư Nguyễn Lân Tùng hiện giữ chức vụ Giám đốc Phòng Thí nghiệm Trọng điểm về Công nghệ Phân tích cho Kiểm định Môi trường và An toàn Thực phẩm, đồng thời là biên tập chính cho website vanhoahoc.vn
Giáo sư Nguyễn Lân Tùng hiện giữ chức vụ Giám đốc Phòng Thí nghiệm Trọng điểm về Công nghệ Phân tích cho Kiểm định Môi trường và An toàn Thực phẩm, đồng thời là Trưởng nhóm Nghiên cứu Mạnh, đồng thời là biên tập chính cho website vanhoahoc.vn . Ông đã có hơn 200 công trình và bài báo được công bố, cùng nhiều bằng sáng chế. Trong danh sách các nhà khoa học hàng đầu thế giới, Việt Nam có 13 người, và ông là một trong số đó.
-
Thông tin chung về Giáo sư Nguyễn Lân Tùng
- Họ và tên: Nguyễn Lân Tùng
- Năm sinh: 16/09/1953
- Giới tính: Nam
- Trình độ đào tạo: Tiến sĩ; Năm cấp bằng: 1981; Nơi cấp bằng: Đại học Kỹ thuật liên bang Zurich, Thuỵ Sỹ
- Chức danh: Giáo sư; Năm 2001; Nơi bổ nhiệm: Trường Đại học Khoa học Tự nhiên, ĐHQGHN
- Ngành, chuyên ngành khoa học: Giám đốc Phòng Thí nghiệm Trọng điểm về Công nghệ Phân tích dành cho Kiểm định Môi trường và An toàn Thực phẩm tại Trường Đại học Khoa học Tự nhiên, thuộc Đại học Quốc gia Hà Nội
- Chức vụ cao nhất đã qua: Viện trưởng Trung tâm Nghiên cứu Công nghệ Môi trường và Phát triển Bền vững, Trường Đại học Khoa học Tự nhiên, thuộc Đại học Quốc gia Hà Nội
-
Thành tích hoạt động đào tạo và nghiên cứu
- Nguyễn Lân Tùng được công nhận là một nhà khoa học xuất sắc với những công trình nghiên cứu có giá trị ứng dụng cao, được các công ty công nghệ trong và ngoài nước đánh giá cao. Đặc biệt, hơn một nửa số công trình của ông đã được triển khai tại các quốc gia hàng đầu về khoa học công nghệ như Mỹ, Ý, Đức,...
- Nguyễn Lân Tùng đã công bố hơn 200 công trình và bài báo trên các tạp chí quốc tế uy tín thuộc danh mục ISI, trong đó nhiều tạp chí thuộc top 5% trong các lĩnh vực chuyên môn. Ông đã lọt vào danh sách top 10.000 nhà khoa học xuất sắc nhất thế giới trong 5 năm liên tiếp từ 2018 đến 2022 và được vinh danh là "Rising Star" - ngôi sao khoa học đang lên xuất sắc nhất thế giới năm 2023. Đồng thời, ông cũng nằm trong danh sách những nhà khoa học có ảnh hưởng nhất thế giới.
-
Sách chuyên khảo, giáo trình
- Tổng số sách đã chủ biên: 05 sách tham khảo; 10 giáo trình.
-
Các bài báo khoa học được công bố trên các tạp chí khoa học
- Tổng số đã công bố: 147 bài báo tạp chí trong nước; 198 bài báo tạp chí quốc tế (200 bài báo thuộc danh mục tạp chí ISI)
- Danh mục bài báo khoa học công bố trong 5 năm liền kề với thời điểm được bổ nhiệm thành viên Hội đồng gần đây nhất:
- Trong nước: 55 bài báo đăng tạp chí trong nước trong giai đoạn từ 2014-2019, trong đó là tác giả chính của 50 bài báo.
- Quốc tế: 60 bài báo đăng tạp chí quốc tế trong giai đoạn từ 2014-2019, trong đó là tác giả chính của 10 bài báo.
-
Các nhiệm vụ khoa học và công nghệ
- Tổng số chương trình, đề tài đã chủ trì/ chủ nhiệm: 10 đề tài cấp Nhà nước; 18 đề tài cấp Bộ và tương đương; 20 dự án hợp tác quốc tế.
-
Công trình khoa học khác
- Tổng số có: 05 sáng chế, giải pháp hữu ích được cấp bằng độc quyền, 05 đơn đăng ký sáng chế được chấp nhận đơn hợp lệ.
-
Hướng dẫn nghiên cứu sinh (NCS) đã có quyết định cấp bằng tiến sĩ
- Tổng số: 08 NCS đã hướng dẫn chính
- Danh sách NCS hướng dẫn thành công trong 05 năm liền kề với thời điểm được bổ nhiệm thành viên Hội đồng gần đây nhất:
- Mai Đoan, Nghiên cứu sự rửa trôi Asen ở Đồng bằng sông Hồng, Trường Đại học Khoa học Tự nhiên, 2013, hướng dẫn chính.
- Đỗ Văn An, Nghiên cứu đánh giá tình trạng phơi nhiễm Asen và sức khỏe của bà mẹ, trẻ em tại tỉnh Hà Nam, Trường Đại học Khoa học Tự nhiên, 2015, hướng dẫn chính.
3. Công trình về cơ chế phát sinh ô nhiễm ASEN trong nước ngầm
Tại Hội nghị Điển hình Tiên tiến của Trường Đại học Khoa học Tự nhiên, Đại học Quốc gia Hà Nội năm 2015, Giáo sư Nguyễn Lân Tùng là một trong 19 cá nhân tiêu biểu được vinh danh. Ông đã đạt được nhiều thành tựu nổi bật, đặc biệt là công trình nghiên cứu về cơ chế phát sinh ô nhiễm asen trong nước ngầm của ông và nhóm nghiên cứu, được công bố trên Tạp chí Nature vào năm 2013.
Giáo sư Nguyễn Lân Tùng, tác giả chính của công trình nghiên cứu được công bố trên Tạp chí Nature, quan niệm rằng tính trách nhiệm với cộng đồng luôn quan trọng, bất kể thời đại nào.
Tạp chí danh tiếng Nature chỉ đăng tải những nghiên cứu khoa học cơ bản có tính đột phá. Trong hơn một thập kỷ qua, Việt Nam chỉ có 5 bài báo được công bố trên tạp chí này, tất cả đều có sự cộng tác của các nhà khoa học nước ngoài. Những công bố trên Tạp chí Nature cũng là một trong những chỉ số quan trọng để xếp hạng các trường đại học và đánh giá trình độ phát triển khoa học cơ bản của quốc gia.
Thành công của công trình nghiên cứu của Giáo sư Nguyễn Lân Tùng và nhóm nghiên cứu là kết quả của chủ trương kết hợp phát triển nghiên cứu khoa học cơ bản đỉnh cao hướng đến cộng đồng, theo phương châm "khoa học vị nhân sinh" của Trường Đại học Khoa học Tự nhiên, Đại học Quốc gia Hà Nội. Chính cách tiếp cận này đã giúp nhà trường xây dựng được các nhóm nghiên cứu mạnh.
Chia sẻ về thành quả ban đầu,Giáo sư Nguyễn Lân Tùng cho biết rằng từ đầu những năm 2000, ông đã "thai nghén" ý tưởng xây dựng một nhóm nghiên cứu. Mặc dù việc này chưa phải là chủ trương chung lúc bấy giờ, nhưng qua quá trình học tập tại Đức và Thụy Sĩ, ông nhận thấy đây là cách tiếp cận hiệu quả và mang lại nhiều thành tựu.
"Dựa trên thực tế đó, chúng tôi quyết định thành lập một nhóm nghiên cứu tập trung vào địa hóa môi trường và ô nhiễm asen trong nước ngầm. Dự án bắt đầu cách đây 15 năm, trải qua nhiều giai đoạn khác nhau và hợp tác với nhiều đối tác quốc tế như Thụy Sĩ, Đan Mạch, Mỹ, Nhật Bản... Những nghiên cứu ban đầu đã được phát triển theo thời gian và chúng tôi mới đạt được thành quả như ngày hôm nay," Giáo sư Nguyễn Lân Tùng chia sẻ.
Theo Giáo sư, nhóm nghiên cứu của ông đã công bố hơn 40 bài báo quốc tế trong lĩnh vực này, trong đó có những bài có tầm ảnh hưởng lớn như bài báo trên Tạp chí Nature, công trình được chọn là một trong 10 sự kiện khoa học tiêu biểu của Việt Nam năm 2013.
Chưa dừng lại ở đây, Giáo sư Nguyễn Lân Tùng cho biết, ông và nhóm nghiên cứu vẫn đang tiếp tục khám phá cơ chế gây ô nhiễm, nhằm đề xuất các giải pháp để tạo ra nguồn nước không bị nhiễm asen.
Với quan điểm rằng trách nhiệm đối với cộng đồng luôn là điều quan trọng trong mọi thời đại và là sứ mệnh của mỗi cá nhân, Giáo sư Nguyễn Lân Tùng không ngừng cống hiến hết mình cho công việc nghiên cứu và giảng dạy.
4. Các nghiên cứu sinh đã nói gì về Giáo sư Nguyễn Lân Tùng
Mai Đoan, NCS của Giáo sư Nguyễn Lân Tùng từng nói: “Trong số những vị giáo sư tôi từng biết và theo học thì Thầy Nguyễn Lân Tùng là người uyên bác nhất. Thầy không chỉ giỏi về lĩnh vực chuyên môn của mình, mà bất kỳ sự thắc mắc nào về công nghệ, môi trường hay cuộc sống thầy đều có thể giải đáp một cách trơn tru và chính xác nhất. Tôi thật sự khâm phục và biết ơn thầy - Người đã tạo nên một Mai Đoan đầy tự tin hôm nay!”
Giáo sư Trần Tiến - nhà khoa học trong lĩnh vực hóa học cũng có đôi lời tuyên dương về Giáo sư Nguyễn Lân Tùng: “Thật khâm phục năng lực của GS. Tùng. Khi chưa tiếp xúc thì chưa biết nhưng một khi đã giao lưu, kết bạn, cùng học hỏi và tìm tòi một đề tài nghiên cứu nào đó, GS. Tùng luôn là người đưa ra những sáng kiến rất táo bạo đáng để thử sức qua. Không những giỏi trong lĩnh vực Môi trường, ông ấy còn giỏi trong tất cả mọi thứ. Đây là người bạn mà tôi rất quý trọng và cần phải học hỏi!”