Tác giả:lê hồng hiệp
Địa chính trị là nghiên cứu về ảnh hưởng của các yếu tố địa lý đối với hành vi của các quốc gia và quan hệ quốc tế. Cụ thể, địa chính trị là nghiên cứu về cách các yếu tố như vị trí địa lý, khí hậu, tài nguyên thiên nhiên, dân số hoặc địa hình ảnh hưởng đến chính sách đối ngoại của một quốc gia, một quốc gia và vị trí của quốc gia đó trong hệ thống quốc tế.
Thuật ngữ “địa chính trị” lần đầu tiên được sử dụng bởi nhà khoa học chính trị người Thụy Điển Rudolf Kellen vào năm 1899. Kayellen tin rằng các đặc điểm kinh tế, chính trị và quân sự của một quốc gia là do các yếu tố địa lý và môi trường của quốc gia đó. Những yếu tố địa lý này có thể thúc đẩy hoặc kìm hãm sự phát triển kinh tế xã hội và chính trị, đồng thời giúp định hình bản sắc và lịch sử của mỗi quốc gia. Sheron đặc biệt quan tâm đến ảnh hưởng của các đặc điểm địa lý như núi và đại dương đối với đời sống chính trị của quốc gia.
Vào đầu thế kỷ 20, khái niệm địa chính trị đã được nhà sử học hải quân người Mỹ Alfred Thayer Mahan (1840-1914) và nhà địa lý học người Anh Halford John Mackinder (Halford John Mackinder, 1861-1947) tiếp tục phát triển. Cả hai đều lập luận rằng những cuộc đấu tranh quan trọng nhất để giành ưu thế địa chính trị trong lịch sử đã xảy ra giữa các cường quốc biển và lục địa. Điều này xảy ra từ rất sớm trong lịch sử loài người, được minh chứng bằng cuộc đối đầu giữa cường quốc biển Athens và cường quốc đất liền Sparta trong Chiến tranh Peloponnesian. Mahan tin rằng có một lực lượng hải quân mạnh là chìa khóa để phát triển sức mạnh quốc gia. Khi đó, một quốc gia kiểm soát biển như Anh có vị thế áp đảo trong hệ thống quan hệ quốc tế. Ngược lại, vào năm 1939, Halford Mackinder đã đề xuất trong “Lý thuyết Heartland” của mình rằng một quốc gia có thể kiểm soát lãnh thổ giữa Đức và Siberia sẽ có thể kiểm soát thế giới. giới tính.
Vào những năm 1930, địa chính trị được các học giả người Đức, đặc biệt là Karl Haushoff, một vị tướng về hưu và là giáo sư địa lý tại Đại học München, quảng bá và ứng dụng rộng rãi. Sau khi Hitler lên nắm quyền vào năm 1933, Karl Haushoff trở nên thân thiết với Adolf Hitler và giúp đưa địa chính trị vào chính sách đối ngoại của chính phủ phát xít. Theo đó, chính phủ Đức Quốc xã tin rằng Đức cần mở rộng “không gian sống” (lebensraum) để đạt được khả năng tự cung tự cấp. Khái niệm này đã được chính quyền Đức quốc xã sử dụng để biện minh cho việc xâm chiếm lãnh thổ của các nước láng giềng. Có thể lập luận rằng chính sách của Đức trong giai đoạn này bị ảnh hưởng bởi luận điểm của Halford Mackinder rằng Đức sẽ nổi lên như một bá chủ toàn cầu nếu chiếm được Trung Âu và không bị hạn chế bởi các cường quốc hàng hải như Anh hay Hoa Kỳ.
Bất chấp ý tưởng mở rộng “không gian sống” của Hitler bị lên án và thất bại của Đức trong Thế chiến II, địa chính trị vẫn là một lĩnh vực nghiên cứu. Do đó, điểm mấu chốt của tư tưởng địa chính trị hấp dẫn là tầm quan trọng của địa lý đối với chính sách đối ngoại của một quốc gia. Các mục tiêu chính sách đối ngoại của một quốc gia bị kẹp giữa hai quốc gia lục địa sẽ rất khác so với mục tiêu của một quốc đảo hoặc một quốc gia bị bao quanh bởi các rào cản tự nhiên.
Ví dụ, nhiều người cho rằng chính sách đối ngoại biệt lập của Hoa Kỳ trước Chiến tranh thế giới thứ hai bắt nguồn từ việc Hoa Kỳ bị cô lập về địa lý với châu Âu và tiếp cận Đại Tây Dương, trong khi Thái Bình Dương là hàng rào phòng thủ tự nhiên. Đặc điểm địa lý này cũng giải thích vì sao Mỹ coi trọng phát triển hải quân. Đồng thời, Nga thường duy trì mối quan hệ căng thẳng và khó khăn với các cường quốc châu Âu do vị trí địa lý của nước này ở rìa châu Âu và không có biên giới an toàn.
Tương tự, trong quan hệ với Trung Quốc, “lời nguyền địa lý” hay việc Việt Nam là một nước nhỏ lớn gấp nhiều lần Trung Quốc cũng là một yếu tố quan trọng định hình mối quan hệ giữa hai nước. nước trong lịch sử. Trung Quốc luôn tìm cách ảnh hưởng, kiểm soát hoặc lệ thuộc Việt Nam, trong khi Việt Nam luôn tìm cách duy trì độc lập, tự chủ trước gã khổng lồ phương Bắc. Điều này đã dẫn đến những thăng trầm, thậm chí đối đầu trong quan hệ giữa hai nước trong nhiều giai đoạn lịch sử.
Ngoài ra, các nhà nghiên cứu địa chính trị còn cho rằng vị trí địa lý có liên quan đến sức mạnh và sự phát triển của mỗi quốc gia. Các quốc gia nằm trong khu vực có khí hậu ôn hòa có xu hướng có sức mạnh kinh tế và quân sự lớn hơn các quốc gia khác do lợi thế về nông nghiệp và khai thác tài nguyên; trong khi các quốc gia nằm gần xích đạo hoặc ở vùng khí hậu lạnh hơn có xu hướng có nền kinh tế kém phát triển hơn và phụ thuộc nhiều hơn vào thời tiết các điều kiện. Tương tự như vậy, khí hậu có thể ảnh hưởng đến an ninh của một quốc gia. Quân đội Pháp thời Napoléon hay quân đội Đức thời Hitler đều bị thời tiết băng giá cản trở khi xâm lược nước Nga. Đặc điểm địa hình như sa mạc, rừng rậm hay núi non hiểm trở cũng là yếu tố quan trọng ảnh hưởng đến chiến thuật quân sự và có thể quyết định sự thành bại của quân đội trong tác chiến. chiến tranh.
Vì vậy, có thể nói yếu tố địa chính trị đóng vai trò quan trọng trong chính sách đối ngoại của các quốc gia. Tuy nhiên, cần nhìn nhận rằng địa lý chỉ là một trong nhiều yếu tố ảnh hưởng đến sự lựa chọn chính sách của mỗi quốc gia và quan hệ quốc tế nói chung. Trên thực tế, trong thời đại toàn cầu hóa ngày nay, địa chính trị ngày càng ít đóng vai trò hơn khi các biên giới trở nên mờ nhạt.
Dòng chảy tự do về thương mại, đầu tư, vốn, công nghệ hoặc nguồn nhân lực ngày càng trở nên tự do hơn và dần thay thế các biên giới địa lý và chính trị cố định, tạo cơ sở và khuôn khổ cho các mối quan hệ kinh tế và chính trị giữa các quốc gia. Mặt khác, với sự trỗi dậy của các nền kinh tế Đông Á trong những thập kỷ gần đây, nhiều người tin rằng đã đến lúc thay thế khái niệm địa chính trị bằng địa kinh tế. Do đó, các quốc gia có nền kinh tế phát triển và chính sách thương mại cởi mở trở nên quan trọng hơn các quốc gia có sức mạnh quân sự lớn. Các lợi ích kinh tế đã dần thay thế các cân nhắc về chiến lược, chính trị hoặc quân sự với tư cách là yếu tố chính chi phối chính sách đối ngoại của một quốc gia.
Nguồn:dao minh hong – le hong hiep (eds.), Sổ tay thuật ngữ quan hệ quốc tế, (tphcm: Đại học qhqt – Đại học Bách Khoa, tphcm, 2013).