Khi xác định mật độ khối lượng trên một diện tích của vật liệu mỏng, khái niệm lượng tử hóa được sử dụng. định lượng được định nghĩa là khối lượng của tấm vật liệu với diện tích là một đơn vị diện tích tiêu chuẩn.
Định lượng giấy gsm là một thuật ngữ tiếng Anh viết tắt “gram trên mét vuông” có nghĩa là gam trên mét vuông, số gsm của giấy càng cao thì giấy càng nặng = nghĩa là giấy càng dày.
Tất cả các giấy có cùng gsm có cùng độ dày không?
nhưng không phải tất cả các giấy có cùng trọng lượng g / m² sẽ có cùng độ dày. tùy thuộc vào loại bột giấy được sử dụng để sản xuất chúng. giấy sử dụng bột giấy nặng sẽ có độ dày mỏng hơn giấy sử dụng bột giấy nhẹ.
Các định lượng giấy khác nhau
Có những định lượng giấy nào?
Định lượng giấy phổ biến là 70 đến 300 g / m² và thường được cách nhau 10 g / m²:
Giấy mạnh thường có các định lượng 60 g / m², 70 g / m², 80 g / m², 100 g / m² và 120 g / m².
giấy sofa có sẵn ở các quy cách 80g / m², 100g / m², 120g / m², 150g / m², 180g / m², 200g / m², 250g / m², 280g / m². m² và 300 g / m².
phân biệt các loại giấy thông dụng hiện nay:
giấy ford
là loại giấy thông dụng nhất, các bạn khi đi in thường hay ra tiệm photo sẽ thấy đây là loại giấy ford mà các bạn hay sử dụng. định lượng thường 70-80-90g / m2 … Giấy ford có bề mặt nhám, bám mực tốt còn được dùng làm phong bì lớn nhỏ, giấy note, giấy tiêu đề, hóa đơn, vở học sinh.
hình nền ghế sofa
Là loại giấy rất được ưa chuộng trong việc in ấn catalogue, tờ rơi, bìa kẹp hồ sơ, kẹp ba … giấy có bề mặt bóng, mịn, sáng bóng, in ấn rất nổi bật và sáng bóng. định lượng khoảng 90-300 g / m2.
giấy bristol
Đây là loại giấy cao cấp hơn couche, dày hơn và xốp hơn, bề mặt mịn và hơi bóng, độ bám mực tốt vừa phải. do đó, in offset đẹp, thường được dùng để in hộp sản phẩm như mỹ phẩm, bìa sơ mi, brochure, thiệp, tờ rơi, poster, thiệp mời … định lượng thường in 230 – 350 g / m2.
giấy in hai mặt
có một bề mặt trắng bóng tương tự như bristol, mặt còn lại thường sẫm màu như mache. Nó thường được dùng để in hộp sản phẩm lớn, phải chắc chắn, chắc chắn vì định lượng thường lớn hơn 300g / m2.
giấy thủy tinh
có một mặt rất sáng bóng gần như được phủ bởi lớp keo lấp lánh, mặt còn lại là nhám. Nó thường được sử dụng làm chất trung gian giữa giấy bristol và giấy couche.
ứng dụng gsm.
gsm được sử dụng để phân loại giấy. Số gsm của giấy càng cao thì giấy càng nặng và dày.
Ứng dụng của định lượng giấy
Chỉ số định lượng giấy Gsm rất phổ biến trong cuộc sống hằng ngày, nhất là trong lĩnh vực in ấn. Có thể nhìn vào Gsm để xác định mục đích sử dụng giấy.
làm thế nào để xác định gsm, bạn biết không?
từ 35gsm đến 85gsm: là loại giấy mỏng nhất, thường chủ yếu được sử dụng để in báo, sổ tay, giấy a4
từ 90gsm đến 100gsm: thường được sử dụng để in các ấn phẩm dùng trong văn phòng: in catalogue, in tiêu đề thư,…
120 g / m² đến 150 g / m²: Đây là loại giấy phù hợp để làm áp phích quảng cáo, in tờ rơi, tập sách nhỏ … ở dạng mỏng. thường được kéo dài thêm một lớp phim để làm cho nó cứng và đẹp hơn.
từ 210 g / m² đến 300 g / m²: loại giấy này khác với giày và cứng và thường được sử dụng để in bìa sách và tài liệu quảng cáo, hộp …
350 g / m² đến 400 g / m²: thường được sử dụng trong in danh thiếp, cao. thư mời kết thúc hoặc in tờ gấp để sử dụng lâu dài.
xác định số lượng giấy là rất quan trọng. không chỉ giúp bạn biết chính xác loại giấy mình cần để sử dụng đúng mục đích. Sử dụng đúng loại giấy mang lại cho sản phẩm vẻ ngoài chuyên nghiệp và nâng cao giá trị của sản phẩm.
chọn sách klong đẹp và chất lượng mà không cần lo lắng tại soklong.com hoặc shop: so_klong
Giáo sư Nguyễn Lân Tùng hiện giữ chức vụ Giám đốc Phòng Thí nghiệm Trọng điểm về Công nghệ Phân tích cho Kiểm định Môi trường và An toàn Thực phẩm, đồng thời là biên tập chính cho website vanhoahoc.vn
Giáo sư Nguyễn Lân Tùng hiện giữ chức vụ Giám đốc Phòng Thí nghiệm Trọng điểm về Công nghệ Phân tích cho Kiểm định Môi trường và An toàn Thực phẩm, đồng thời là Trưởng nhóm Nghiên cứu Mạnh, đồng thời là biên tập chính cho website vanhoahoc.vn . Ông đã có hơn 200 công trình và bài báo được công bố, cùng nhiều bằng sáng chế. Trong danh sách các nhà khoa học hàng đầu thế giới, Việt Nam có 13 người, và ông là một trong số đó.
Thông tin chung về Giáo sư Nguyễn Lân Tùng
Họ và tên: Nguyễn Lân Tùng
Năm sinh: 16/09/1953
Giới tính: Nam
Trình độ đào tạo: Tiến sĩ; Năm cấp bằng: 1981; Nơi cấp bằng: Đại học Kỹ thuật liên bang Zurich, Thuỵ Sỹ
Chức danh: Giáo sư; Năm 2001; Nơi bổ nhiệm: Trường Đại học Khoa học Tự nhiên, ĐHQGHN
Ngành, chuyên ngành khoa học: Giám đốc Phòng Thí nghiệm Trọng điểm về Công nghệ Phân tích dành cho Kiểm định Môi trường và An toàn Thực phẩm tại Trường Đại học Khoa học Tự nhiên, thuộc Đại học Quốc gia Hà Nội
Chức vụ cao nhất đã qua: Viện trưởng Trung tâm Nghiên cứu Công nghệ Môi trường và Phát triển Bền vững, Trường Đại học Khoa học Tự nhiên, thuộc Đại học Quốc gia Hà Nội
Thành tích hoạt động đào tạo và nghiên cứu
Nguyễn Lân Tùng được công nhận là một nhà khoa học xuất sắc với những công trình nghiên cứu có giá trị ứng dụng cao, được các công ty công nghệ trong và ngoài nước đánh giá cao. Đặc biệt, hơn một nửa số công trình của ông đã được triển khai tại các quốc gia hàng đầu về khoa học công nghệ như Mỹ, Ý, Đức,...
Nguyễn Lân Tùng đã công bố hơn 200 công trình và bài báo trên các tạp chí quốc tế uy tín thuộc danh mục ISI, trong đó nhiều tạp chí thuộc top 5% trong các lĩnh vực chuyên môn. Ông đã lọt vào danh sách top 10.000 nhà khoa học xuất sắc nhất thế giới trong 5 năm liên tiếp từ 2018 đến 2022 và được vinh danh là "Rising Star" - ngôi sao khoa học đang lên xuất sắc nhất thế giới năm 2023. Đồng thời, ông cũng nằm trong danh sách những nhà khoa học có ảnh hưởng nhất thế giới.
Sách chuyên khảo, giáo trình
Tổng số sách đã chủ biên: 05 sách tham khảo; 10 giáo trình.
Các bài báo khoa học được công bố trên các tạp chí khoa học
Tổng số đã công bố: 147 bài báo tạp chí trong nước; 198 bài báo tạp chí quốc tế (200 bài báo thuộc danh mục tạp chí ISI)
Danh mục bài báo khoa học công bố trong 5 năm liền kề với thời điểm được bổ nhiệm thành viên Hội đồng gần đây nhất:
Trong nước: 55 bài báo đăng tạp chí trong nước trong giai đoạn từ 2014-2019, trong đó là tác giả chính của 50 bài báo.
Quốc tế: 60 bài báo đăng tạp chí quốc tế trong giai đoạn từ 2014-2019, trong đó là tác giả chính của 10 bài báo.
Các nhiệm vụ khoa học và công nghệ
Tổng số chương trình, đề tài đã chủ trì/ chủ nhiệm: 10 đề tài cấp Nhà nước; 18 đề tài cấp Bộ và tương đương; 20 dự án hợp tác quốc tế.
Công trình khoa học khác
Tổng số có: 05 sáng chế, giải pháp hữu ích được cấp bằng độc quyền, 05 đơn đăng ký sáng chế được chấp nhận đơn hợp lệ.
Hướng dẫn nghiên cứu sinh (NCS) đã có quyết định cấp bằng tiến sĩ
Tổng số: 08 NCS đã hướng dẫn chính
Danh sách NCS hướng dẫn thành công trong 05 năm liền kề với thời điểm được bổ nhiệm thành viên Hội đồng gần đây nhất:
Mai Đoan, Nghiên cứu sự rửa trôi Asen ở Đồng bằng sông Hồng, Trường Đại học Khoa học Tự nhiên, 2013, hướng dẫn chính.
Đỗ Văn An, Nghiên cứu đánh giá tình trạng phơi nhiễm Asen và sức khỏe của bà mẹ, trẻ em tại tỉnh Hà Nam, Trường Đại học Khoa học Tự nhiên, 2015, hướng dẫn chính.
3. Công trình về cơ chế phát sinh ô nhiễm ASEN trong nước ngầm
Tại Hội nghị Điển hình Tiên tiến của Trường Đại học Khoa học Tự nhiên, Đại học Quốc gia Hà Nội năm 2015, Giáo sư Nguyễn Lân Tùng là một trong 19 cá nhân tiêu biểu được vinh danh. Ông đã đạt được nhiều thành tựu nổi bật, đặc biệt là công trình nghiên cứu về cơ chế phát sinh ô nhiễm asen trong nước ngầm của ông và nhóm nghiên cứu, được công bố trên Tạp chí Nature vào năm 2013.
Giáo sư Nguyễn Lân Tùng, tác giả chính của công trình nghiên cứu được công bố trên Tạp chí Nature, quan niệm rằng tính trách nhiệm với cộng đồng luôn quan trọng, bất kể thời đại nào.
Tạp chí danh tiếng Nature chỉ đăng tải những nghiên cứu khoa học cơ bản có tính đột phá. Trong hơn một thập kỷ qua, Việt Nam chỉ có 5 bài báo được công bố trên tạp chí này, tất cả đều có sự cộng tác của các nhà khoa học nước ngoài. Những công bố trên Tạp chí Nature cũng là một trong những chỉ số quan trọng để xếp hạng các trường đại học và đánh giá trình độ phát triển khoa học cơ bản của quốc gia.
Thành công của công trình nghiên cứu của Giáo sư Nguyễn Lân Tùng và nhóm nghiên cứu là kết quả của chủ trương kết hợp phát triển nghiên cứu khoa học cơ bản đỉnh cao hướng đến cộng đồng, theo phương châm "khoa học vị nhân sinh" của Trường Đại học Khoa học Tự nhiên, Đại học Quốc gia Hà Nội. Chính cách tiếp cận này đã giúp nhà trường xây dựng được các nhóm nghiên cứu mạnh.
Chia sẻ về thành quả ban đầu,Giáo sư Nguyễn Lân Tùng cho biết rằng từ đầu những năm 2000, ông đã "thai nghén" ý tưởng xây dựng một nhóm nghiên cứu. Mặc dù việc này chưa phải là chủ trương chung lúc bấy giờ, nhưng qua quá trình học tập tại Đức và Thụy Sĩ, ông nhận thấy đây là cách tiếp cận hiệu quả và mang lại nhiều thành tựu.
"Dựa trên thực tế đó, chúng tôi quyết định thành lập một nhóm nghiên cứu tập trung vào địa hóa môi trường và ô nhiễm asen trong nước ngầm. Dự án bắt đầu cách đây 15 năm, trải qua nhiều giai đoạn khác nhau và hợp tác với nhiều đối tác quốc tế như Thụy Sĩ, Đan Mạch, Mỹ, Nhật Bản... Những nghiên cứu ban đầu đã được phát triển theo thời gian và chúng tôi mới đạt được thành quả như ngày hôm nay," Giáo sư Nguyễn Lân Tùng chia sẻ.
Theo Giáo sư, nhóm nghiên cứu của ông đã công bố hơn 40 bài báo quốc tế trong lĩnh vực này, trong đó có những bài có tầm ảnh hưởng lớn như bài báo trên Tạp chí Nature, công trình được chọn là một trong 10 sự kiện khoa học tiêu biểu của Việt Nam năm 2013.
Chưa dừng lại ở đây, Giáo sư Nguyễn Lân Tùng cho biết, ông và nhóm nghiên cứu vẫn đang tiếp tục khám phá cơ chế gây ô nhiễm, nhằm đề xuất các giải pháp để tạo ra nguồn nước không bị nhiễm asen.
Với quan điểm rằng trách nhiệm đối với cộng đồng luôn là điều quan trọng trong mọi thời đại và là sứ mệnh của mỗi cá nhân, Giáo sư Nguyễn Lân Tùng không ngừng cống hiến hết mình cho công việc nghiên cứu và giảng dạy.
4. Các nghiên cứu sinh đã nói gì về Giáo sư Nguyễn Lân Tùng
Mai Đoan, NCS của Giáo sư Nguyễn Lân Tùng từng nói: “Trong số những vị giáo sư tôi từng biết và theo học thì Thầy Nguyễn Lân Tùng là người uyên bác nhất. Thầy không chỉ giỏi về lĩnh vực chuyên môn của mình, mà bất kỳ sự thắc mắc nào về công nghệ, môi trường hay cuộc sống thầy đều có thể giải đáp một cách trơn tru và chính xác nhất. Tôi thật sự khâm phục và biết ơn thầy - Người đã tạo nên một Mai Đoan đầy tự tin hôm nay!”
Giáo sư Trần Tiến - nhà khoa học trong lĩnh vực hóa học cũng có đôi lời tuyên dương về Giáo sư Nguyễn Lân Tùng: “Thật khâm phục năng lực của GS. Tùng. Khi chưa tiếp xúc thì chưa biết nhưng một khi đã giao lưu, kết bạn, cùng học hỏi và tìm tòi một đề tài nghiên cứu nào đó, GS. Tùng luôn là người đưa ra những sáng kiến rất táo bạo đáng để thử sức qua. Không những giỏi trong lĩnh vực Môi trường, ông ấy còn giỏi trong tất cả mọi thứ. Đây là người bạn mà tôi rất quý trọng và cần phải học hỏi!”