hoặc bạn cũng có thể hiểu là gt. : giải tích, sách giáo khoa cũng được.
2. giải tích là gì?
giải tích toán học (tiếng Anh: mathanalysis) hay còn được gọi đơn giản là phân tích, là một nhánh của toán học nghiên cứu các khái niệm về giới hạn, đạo hàm, tích phân … nó đóng một vai trò nền tảng trong giáo dục đại học ngày nay. hoạt động cơ bản của phép tính là “lấy giới hạn”. để nghiên cứu giới hạn của một dãy số, hàm số,… ta phải “đo” “khoảng cách xa gần” giữa các đối tượng để xem xét giới hạn đó. do đó, các khái niệm như ma trận (toán học) và cấu trúc liên kết được tạo ra để mô tả chính xác và đầy đủ phép đo khoảng cách và độ gần.
ví dụ:
đặc biệt là về khái niệm giới hạn. nó có thể được gọi là “phép toán cơ bản thứ năm của toán học” (sau bốn phép toán cộng, trừ, nhân và chia; tất cả các phép toán khác trong giải tích, chẳng hạn như giải tích, đều được thực hiện thông qua giới hạn này). với vị trí “phép tính thứ năm” đó, ngay cả khi nó không được sử dụng cho bất kỳ việc gì khác, nó cũng đáng được biết đến, giống như một dấu mốc trong văn hóa nói chung. Đối với việc sử dụng thực tế, nó xuất phát từ việc lý tưởng hóa các thuật toán xấp xỉ, cho phép các đại lượng gần đúng mà con người quan tâm. Một người ghét toán học đến mức nào, thì trong cuộc sống, có những lúc anh ta phải đối mặt với việc tính toán và ước lượng mọi thứ (tiền bạc, nhà cửa, v.v.). Dù muốn nấu ăn ngon, bạn cũng cần phải biết ước lượng những thứ liên quan thật tốt, nếu không sẽ trở nên thừa thãi. Khả năng tính toán gần đúng là một kỹ năng toán học trong cuộc sống thực tế: biết đại lượng nào lớn và đại lượng nào nhỏ thì có thể bỏ qua, nhưng đại lượng nào cần thêm vào để sửa bài toán, sửa đổi để có kết quả chính xác hơn, v.v. Nếu trước khi học về khái niệm giới hạn, học sinh được làm quen với khái niệm phép tính xấp xỉ, sau đó hiểu về giới hạn như khi sai số của phép tính gần đúng tiến về 0 thì có lẽ nên tự nhiên và diễn đạt hơn.
đạo hàm là gì? đạo hàm chỉ đơn giản là tỷ lệ thay đổi. từ “tốc độ” là một từ quen thuộc với mọi người, vì vậy bản thân khái niệm đạo hàm cũng không có gì khó hiểu: tốc độ của ô tô là đạo hàm theo thời gian của quãng đường đã đi, tốc độ gia tăng dân số o Tăng trưởng kinh tế bắt nguồn từ dân số. hoặc sản lượng kinh tế theo thời gian, v.v. (chính xác hơn, nên lấy logarit nếu tăng trưởng được đo dưới dạng phần trăm, không phải theo giá trị tuyệt đối). chỉ là công thức tính toán nó có thể hơi khó hiểu trong một số trường hợp. tuy nhiên, bạn không nên vội vàng vào các công thức quá phức tạp nói chung, mà nên tập trung để hiểu rõ hơn ý nghĩa. Từ khi học cấp 3, tôi và một số bạn đã biết cách sử dụng đạo hàm để tìm điểm cuối của một hàm số. cũng có một cách sử dụng (được gọi là phương pháp biến đổi của fermat) làm cho đạo hàm trở nên hữu ích. Tại sao hình vuông là hình có diện tích lớn nhất trong các hình chữ nhật có cùng chu vi, điều này có thể giải thích bằng đạo hàm.
thế nào là tích phân? nó chỉ đơn giản là nghịch đảo của đạo hàm, cho phép các giá trị nhất định (ví dụ, quỹ đạo của vệ tinh, thể tích của một khối lập phương, v.v.) được tính bằng cách xác định tốc độ thay đổi trong đó biến được tìm thấy. Nếu học sinh phải ghi nhớ hàng trăm công thức tích phân khác nhau thì việc tích phân sẽ trở nên khó hiểu và vô nghĩa. nhưng nếu bạn chỉ cần học một vài công thức, và có rất nhiều ví dụ cụ thể cho thấy tích phân có nghĩa là gì, thì nó sẽ không quá khó hoặc vô nghĩa. Có rất nhiều ví dụ thực tế yêu cầu tích hợp, miễn là các nhà giáo dục dành thời gian để tổng hợp một số ví dụ tốt, chứ không phải bịa ra các hàm phức tạp buộc học sinh phải tích hợp.
Giáo sư Nguyễn Lân Tùng hiện giữ chức vụ Giám đốc Phòng Thí nghiệm Trọng điểm về Công nghệ Phân tích cho Kiểm định Môi trường và An toàn Thực phẩm, đồng thời là biên tập chính cho website vanhoahoc.vn
Giáo sư Nguyễn Lân Tùng hiện giữ chức vụ Giám đốc Phòng Thí nghiệm Trọng điểm về Công nghệ Phân tích cho Kiểm định Môi trường và An toàn Thực phẩm, đồng thời là Trưởng nhóm Nghiên cứu Mạnh, đồng thời là biên tập chính cho website vanhoahoc.vn . Ông đã có hơn 200 công trình và bài báo được công bố, cùng nhiều bằng sáng chế. Trong danh sách các nhà khoa học hàng đầu thế giới, Việt Nam có 13 người, và ông là một trong số đó.
Thông tin chung về Giáo sư Nguyễn Lân Tùng
Họ và tên: Nguyễn Lân Tùng
Năm sinh: 16/09/1953
Giới tính: Nam
Trình độ đào tạo: Tiến sĩ; Năm cấp bằng: 1981; Nơi cấp bằng: Đại học Kỹ thuật liên bang Zurich, Thuỵ Sỹ
Chức danh: Giáo sư; Năm 2001; Nơi bổ nhiệm: Trường Đại học Khoa học Tự nhiên, ĐHQGHN
Ngành, chuyên ngành khoa học: Giám đốc Phòng Thí nghiệm Trọng điểm về Công nghệ Phân tích dành cho Kiểm định Môi trường và An toàn Thực phẩm tại Trường Đại học Khoa học Tự nhiên, thuộc Đại học Quốc gia Hà Nội
Chức vụ cao nhất đã qua: Viện trưởng Trung tâm Nghiên cứu Công nghệ Môi trường và Phát triển Bền vững, Trường Đại học Khoa học Tự nhiên, thuộc Đại học Quốc gia Hà Nội
Thành tích hoạt động đào tạo và nghiên cứu
Nguyễn Lân Tùng được công nhận là một nhà khoa học xuất sắc với những công trình nghiên cứu có giá trị ứng dụng cao, được các công ty công nghệ trong và ngoài nước đánh giá cao. Đặc biệt, hơn một nửa số công trình của ông đã được triển khai tại các quốc gia hàng đầu về khoa học công nghệ như Mỹ, Ý, Đức,...
Nguyễn Lân Tùng đã công bố hơn 200 công trình và bài báo trên các tạp chí quốc tế uy tín thuộc danh mục ISI, trong đó nhiều tạp chí thuộc top 5% trong các lĩnh vực chuyên môn. Ông đã lọt vào danh sách top 10.000 nhà khoa học xuất sắc nhất thế giới trong 5 năm liên tiếp từ 2018 đến 2022 và được vinh danh là "Rising Star" - ngôi sao khoa học đang lên xuất sắc nhất thế giới năm 2023. Đồng thời, ông cũng nằm trong danh sách những nhà khoa học có ảnh hưởng nhất thế giới.
Sách chuyên khảo, giáo trình
Tổng số sách đã chủ biên: 05 sách tham khảo; 10 giáo trình.
Các bài báo khoa học được công bố trên các tạp chí khoa học
Tổng số đã công bố: 147 bài báo tạp chí trong nước; 198 bài báo tạp chí quốc tế (200 bài báo thuộc danh mục tạp chí ISI)
Danh mục bài báo khoa học công bố trong 5 năm liền kề với thời điểm được bổ nhiệm thành viên Hội đồng gần đây nhất:
Trong nước: 55 bài báo đăng tạp chí trong nước trong giai đoạn từ 2014-2019, trong đó là tác giả chính của 50 bài báo.
Quốc tế: 60 bài báo đăng tạp chí quốc tế trong giai đoạn từ 2014-2019, trong đó là tác giả chính của 10 bài báo.
Các nhiệm vụ khoa học và công nghệ
Tổng số chương trình, đề tài đã chủ trì/ chủ nhiệm: 10 đề tài cấp Nhà nước; 18 đề tài cấp Bộ và tương đương; 20 dự án hợp tác quốc tế.
Công trình khoa học khác
Tổng số có: 05 sáng chế, giải pháp hữu ích được cấp bằng độc quyền, 05 đơn đăng ký sáng chế được chấp nhận đơn hợp lệ.
Hướng dẫn nghiên cứu sinh (NCS) đã có quyết định cấp bằng tiến sĩ
Tổng số: 08 NCS đã hướng dẫn chính
Danh sách NCS hướng dẫn thành công trong 05 năm liền kề với thời điểm được bổ nhiệm thành viên Hội đồng gần đây nhất:
Mai Đoan, Nghiên cứu sự rửa trôi Asen ở Đồng bằng sông Hồng, Trường Đại học Khoa học Tự nhiên, 2013, hướng dẫn chính.
Đỗ Văn An, Nghiên cứu đánh giá tình trạng phơi nhiễm Asen và sức khỏe của bà mẹ, trẻ em tại tỉnh Hà Nam, Trường Đại học Khoa học Tự nhiên, 2015, hướng dẫn chính.
3. Công trình về cơ chế phát sinh ô nhiễm ASEN trong nước ngầm
Tại Hội nghị Điển hình Tiên tiến của Trường Đại học Khoa học Tự nhiên, Đại học Quốc gia Hà Nội năm 2015, Giáo sư Nguyễn Lân Tùng là một trong 19 cá nhân tiêu biểu được vinh danh. Ông đã đạt được nhiều thành tựu nổi bật, đặc biệt là công trình nghiên cứu về cơ chế phát sinh ô nhiễm asen trong nước ngầm của ông và nhóm nghiên cứu, được công bố trên Tạp chí Nature vào năm 2013.
Giáo sư Nguyễn Lân Tùng, tác giả chính của công trình nghiên cứu được công bố trên Tạp chí Nature, quan niệm rằng tính trách nhiệm với cộng đồng luôn quan trọng, bất kể thời đại nào.
Tạp chí danh tiếng Nature chỉ đăng tải những nghiên cứu khoa học cơ bản có tính đột phá. Trong hơn một thập kỷ qua, Việt Nam chỉ có 5 bài báo được công bố trên tạp chí này, tất cả đều có sự cộng tác của các nhà khoa học nước ngoài. Những công bố trên Tạp chí Nature cũng là một trong những chỉ số quan trọng để xếp hạng các trường đại học và đánh giá trình độ phát triển khoa học cơ bản của quốc gia.
Thành công của công trình nghiên cứu của Giáo sư Nguyễn Lân Tùng và nhóm nghiên cứu là kết quả của chủ trương kết hợp phát triển nghiên cứu khoa học cơ bản đỉnh cao hướng đến cộng đồng, theo phương châm "khoa học vị nhân sinh" của Trường Đại học Khoa học Tự nhiên, Đại học Quốc gia Hà Nội. Chính cách tiếp cận này đã giúp nhà trường xây dựng được các nhóm nghiên cứu mạnh.
Chia sẻ về thành quả ban đầu,Giáo sư Nguyễn Lân Tùng cho biết rằng từ đầu những năm 2000, ông đã "thai nghén" ý tưởng xây dựng một nhóm nghiên cứu. Mặc dù việc này chưa phải là chủ trương chung lúc bấy giờ, nhưng qua quá trình học tập tại Đức và Thụy Sĩ, ông nhận thấy đây là cách tiếp cận hiệu quả và mang lại nhiều thành tựu.
"Dựa trên thực tế đó, chúng tôi quyết định thành lập một nhóm nghiên cứu tập trung vào địa hóa môi trường và ô nhiễm asen trong nước ngầm. Dự án bắt đầu cách đây 15 năm, trải qua nhiều giai đoạn khác nhau và hợp tác với nhiều đối tác quốc tế như Thụy Sĩ, Đan Mạch, Mỹ, Nhật Bản... Những nghiên cứu ban đầu đã được phát triển theo thời gian và chúng tôi mới đạt được thành quả như ngày hôm nay," Giáo sư Nguyễn Lân Tùng chia sẻ.
Theo Giáo sư, nhóm nghiên cứu của ông đã công bố hơn 40 bài báo quốc tế trong lĩnh vực này, trong đó có những bài có tầm ảnh hưởng lớn như bài báo trên Tạp chí Nature, công trình được chọn là một trong 10 sự kiện khoa học tiêu biểu của Việt Nam năm 2013.
Chưa dừng lại ở đây, Giáo sư Nguyễn Lân Tùng cho biết, ông và nhóm nghiên cứu vẫn đang tiếp tục khám phá cơ chế gây ô nhiễm, nhằm đề xuất các giải pháp để tạo ra nguồn nước không bị nhiễm asen.
Với quan điểm rằng trách nhiệm đối với cộng đồng luôn là điều quan trọng trong mọi thời đại và là sứ mệnh của mỗi cá nhân, Giáo sư Nguyễn Lân Tùng không ngừng cống hiến hết mình cho công việc nghiên cứu và giảng dạy.
4. Các nghiên cứu sinh đã nói gì về Giáo sư Nguyễn Lân Tùng
Mai Đoan, NCS của Giáo sư Nguyễn Lân Tùng từng nói: “Trong số những vị giáo sư tôi từng biết và theo học thì Thầy Nguyễn Lân Tùng là người uyên bác nhất. Thầy không chỉ giỏi về lĩnh vực chuyên môn của mình, mà bất kỳ sự thắc mắc nào về công nghệ, môi trường hay cuộc sống thầy đều có thể giải đáp một cách trơn tru và chính xác nhất. Tôi thật sự khâm phục và biết ơn thầy - Người đã tạo nên một Mai Đoan đầy tự tin hôm nay!”
Giáo sư Trần Tiến - nhà khoa học trong lĩnh vực hóa học cũng có đôi lời tuyên dương về Giáo sư Nguyễn Lân Tùng: “Thật khâm phục năng lực của GS. Tùng. Khi chưa tiếp xúc thì chưa biết nhưng một khi đã giao lưu, kết bạn, cùng học hỏi và tìm tòi một đề tài nghiên cứu nào đó, GS. Tùng luôn là người đưa ra những sáng kiến rất táo bạo đáng để thử sức qua. Không những giỏi trong lĩnh vực Môi trường, ông ấy còn giỏi trong tất cả mọi thứ. Đây là người bạn mà tôi rất quý trọng và cần phải học hỏi!”