Danh xưng, chứng chỉ, bằng cấp trong hệ thống giáo dục nước ta | Giáo dục Việt Nam

lts: Chứng chỉ bằng cấp là chứng chỉ giáo dục hoặc chuyên môn cho người sở hữu nó. Để đánh giá bản chất thực sự của năng lực giáo dục hoặc năng lực nghề nghiệp của tất cả các bằng cấp, cần có sự thống nhất trong toàn hệ thống giáo dục về các tiêu chí mà các bằng cấp này sẽ được đánh giá. Tiếp theo một bài viết trước về “Nhầm lẫn chức danh học đường”, hôm nay pgs.ts nguyễn lê ninh có ý kiến ​​về việc định lượng chức danh cho các loại chứng chỉ và bằng cấp trong hệ thống giáo dục nước nhà. Các bài báo thể hiện quan điểm của tác giả. Rất hân hạnh được giới thiệu cùng bạn đọc.

I. Giới thiệu về Giấy chứng nhận tốt nghiệp trung học phổ thông Người có giấy chứng nhận này là người đã tốt nghiệp cấp 1, 2, 3 và vượt qua tất cả các bài kiểm tra tiêu chuẩn vào cuối mỗi học kỳ cho mỗi cấp độ của năm học. Giấy chứng nhận tốt nghiệp THPT hệ 1 là điều kiện để người được tự động chuyển sang học cấp 2. Kể cả trường hợp chuyển trường cũng không cần thi chuyển cấp, vì nội dung đào tạo của toàn hệ thống phải được chuẩn hóa của cả nước. hệ thống giáo dục phổ thông. Tương tự như vậy, vào cuối cấp trung học cơ sở, những người có Giấy chứng nhận thôi học cấp trung học cơ sở được tự động chuyển sang giáo dục trung học phổ thông.

Với bằng tốt nghiệp trung học, người sở hữu có thể đăng ký học nghề tại trường dạy nghề mà họ muốn.

Có bằng cấp 3 cũng là người có đủ bản lĩnh để hòa nhập vào cuộc sống hàng ngày của xã hội. Với chứng chỉ này, người được cấp chứng chỉ có thể học lên cao đẳng hoặc đại học mà họ lựa chọn. II. Chứng chỉ kỹ thuật viên Người được cấp chứng chỉ là người đã được đào tạo một cách có trật tự trong trường kỹ thuật theo nội dung của giáo trình đào tạo để thành thạo các kỹ năng. Ít nhất phải đạt được mức độ tự thực hành của đối tượng đã học. Theo quy định của quốc gia hiện hành, trình độ tay nghề này tương đương với 3/7 của người lao động. Việc nâng bậc thợ được thực hiện theo Thông tư số 10 / lĐ-tt ngày 30-9-1986 của Bộ Lao động. Ba. Bằng tốt nghiệp trung cấp kỹ thuật Người có bằng này là những người đã qua đào tạo trung học chuyên ngành. Phải qua đào tạo lý thuyết nghề, hiểu biết cơ bản về nghề, biết vẽ bản vẽ gia công các bộ phận theo bản vẽ lắp tổng thể của máy hoặc vẽ bản vẽ lắp theo bản vẽ thiết kế đã được duyệt; kỹ năng phải có. trở nên trôi chảy.

Một người có bằng trung cấp về công nghệ phải có khả năng giám sát hành vi đúng hay sai của công nhân trong suốt quá trình sản xuất. Đối với những người đạt trình độ trung cấp, chỉ cần hiểu “đúng” và “sai”, họ cần phân biệt được đâu là “điều được phép” và “điều gì không được phép” như đã học ở trường để giám sát việc thực hiện quy trình sản xuất của công nhân.

Để nhận được bằng cấp, sinh viên phải hoàn thành chương trình đào tạo ở cấp độ đó và vượt qua kỳ thi tốt nghiệp về kiến ​​thức và kỹ năng. Yêu cầu về trình độ học vấn để đăng ký học trung cấp kỹ thuật là người có bằng tốt nghiệp trung học phổ thông. Thứ tư, Văn bằng kỹ thuật Để vào trình độ cao đẳng, thí sinh phải có bằng tốt nghiệp trung học phổ thông hoặc đã tốt nghiệp trung cấp kỹ thuật. Bên cạnh việc nắm vững kiến ​​thức chuyên môn cơ bản, hiểu căn nguyên của vấn đề, nắm vững kỹ năng nghề nghiệp, người có trình độ đại học còn phải trả lời được hiện tượng “tại sao lại có” hiện tượng này xảy ra trong quá trình sản xuất của người có trình độ đại học.

Danh xưng, chứng chỉ, bằng cấp trong hệ thống giáo dục nước ta ảnh 3

Danh pháp trường

(gdvn) – Khi các quốc gia áp dụng các tiêu chuẩn quốc tế đối với bằng cấp, học hàm và sự chỉ định hợp pháp của học vị, điều này sẽ giúp nâng cao cơ bản chất lượng giáo dục.

Ngoài ra, trong hệ thống học viện, sinh viên cũng được yêu cầu được đào tạo kỹ năng làm việc trong phòng thí nghiệm, tạo nền tảng để bắt đầu tham gia các thí nghiệm và thực nghiệm liên quan đến đánh giá chất lượng sản phẩm.

Nghiên cứu khoa học đồng thời nhằm cải tiến sản phẩm về chất lượng, mẫu mã, công nghệ,… nhằm tăng giá trị sử dụng hoặc giảm giá thành sản phẩm. Kỹ năng làm việc trong phòng thí nghiệm của những người có bằng đại học kỹ thuật cũng là một lợi thế khi họ có cơ hội học tiếp lên trình độ đại học kỹ thuật. Để được cấp bằng cao đẳng kỹ thuật, sinh viên cao đẳng kỹ thuật phải viết và bảo vệ luận văn, báo cáo tốt nghiệp sau khi hoàn thành chương trình đào tạo cao đẳng. Đồng thời phải hoàn thành khóa thực tập quản lý sản xuất với tư cách là kiểm tra viên kỹ thuật hoặc chuyên viên kỹ thuật tại phòng kỹ thuật của nhà máy, phân xưởng, đơn vị sản xuất. V. Văn bằng Đại học Kỹ thuật Tốt nghiệp đại học kỹ thuật với chức danh kỹ sư. Kỹ sư am hiểu tường tận về bản chất, kiến ​​thức khoa học kỹ thuật liên quan đến chuyên môn. Ngoài ra, cần am hiểu các kỹ năng liên quan, có kỹ năng thực hành trong các phòng thí nghiệm chuyên môn liên quan, biết áp dụng các phương pháp nghiên cứu khoa học vào các dự án nghiên cứu và phát triển, có kiến ​​thức về báo cáo khoa học và phương pháp luận sáng tạo. Đồng thời có khả năng thiết kế ra sản phẩm hoàn chỉnh, phải hoạch định các bước chế tạo sản phẩm một cách hợp lý phù hợp với điều kiện trang thiết bị và nguồn lao động của cơ sở sản xuất để thực hiện quy trình. trong một nghề nghiệp được đào tạo. Để lấy được bằng kỹ sư, sinh viên phải hoàn thành chương trình đào tạo nghề tại trường đại học và trước khi hoàn thành đồ án tốt nghiệp, họ phải thực tập tại một nhà máy, xí nghiệp hoặc công ty sản xuất với tư cách là kỹ sư điều hành sản xuất.

Danh xưng, chứng chỉ, bằng cấp trong hệ thống giáo dục nước ta ảnh 4

ts.nguyen van khai: “Tôi biết có rất nhiều bác sĩ tồi”

(gdvn) – dr.nguyen van khai, với anh, tấm bằng tiến sĩ là vô nghĩa nếu anh không có những đóng góp cụ thể cho đời sống xã hội.

Và họ phải đệ trình lên Hội đồng Tốt nghiệp một kế hoạch dự án phải phản ánh kết quả của việc áp dụng, ở trình độ đại học, những kiến ​​thức mà nhà trường đã trang bị và chuẩn bị.

Giải quyết các giải pháp kỹ thuật để phát triển sản phẩm hoặc nghiên cứu, đồng thời cung cấp cơ sở lý thuyết để phát triển những điều và vấn đề do giảng viên chỉ định hoặc viết. Tự xác định và được người hướng dẫn chấp nhận. Để được đào tạo trình độ cao đẳng, thí sinh phải có bằng tốt nghiệp trung học phổ thông hoặc có bằng trung cấp kỹ thuật, cao đẳng kỹ thuật. Sáu. Bằng cử nhân Bằng cử nhân được sử dụng để biểu thị danh tính của loại bằng cấp của sinh viên tốt nghiệp một ngành nhất định. Chẳng hạn như cử nhân kinh tế, cử nhân văn nghệ, cử nhân luật, cử nhân toán, cử nhân vật lý, cử nhân hóa học, cử nhân sinh học … nhưng không ai gọi là cử nhân ô tô, một cử nhân kỹ thuật cơ khí, một cử nhân kiến ​​trúc. Kiến trúc … Rất nhiều người thắc mắc dù tốt nghiệp cùng một trường đại học nhưng một người lấy bằng cử nhân, người kia lấy bằng kỹ sư. Vậy sự khác biệt là gì? Theo tôi, danh hiệu cử nhân có nghĩa là sản phẩm mà sinh viên tốt nghiệp đại học đóng góp cho xã hội là sản phẩm của tư duy, phù hợp với quy luật phát triển khách quan của xã hội và đạt đến ngưỡng của trí tuệ. Sản phẩm của tư duy này là sản phẩm vật chất vô hình, chỉ có thể viết trên giấy và không thể sờ, cầm, cân, đo. Người sử dụng các sản phẩm đó chỉ có thể nghe, cảm nhận và phát triển nhận thức thông qua nội dung tâm trí của họ được thể hiện trong các bài báo, sách, âm thanh hoặc màu sắc. Vì vậy ngày nay, từ “cử nhân” được dùng tốt nhất để chỉ những người đã được đào tạo ở trình độ cao đẳng, nhưng những lĩnh vực kiến ​​thức chỉ thuộc phạm trù xã hội học là thích hợp nhất. Tuy nhiên, tại một số trường đại học kỹ thuật ở TP.HCM, khi hệ cao đẳng được thành lập, sinh viên tốt nghiệp hệ cao đẳng đã được cấp bằng “Cử nhân kỹ thuật”, một kỳ tích rất đáng ghi nhận. VII. Trình độ thạc sĩ Hiện nay, khái niệm “định lượng chức danh nghề nghiệp” của cán bộ đào tạo ở trình độ này (trình độ thạc sĩ) chưa rõ ràng. Có người cho rằng ở trình độ này chỉ cần cập nhật kiến ​​thức mới và xu hướng phát triển của ngành. Một số người nói trên các phương tiện truyền thông rằng cần liên kết với bác sĩ và tham gia nghiên cứu khoa học.

Danh xưng, chứng chỉ, bằng cấp trong hệ thống giáo dục nước ta ảnh 5

Điều gì tạo nên một hiệu trưởng tốt?

(gdvn) – Một năng lực quan trọng của người hiệu trưởng phải là khả năng đánh giá đúng người khác và thu phục lòng người.

Cần nhớ rằng nghiên cứu khoa học khác với nghiên cứu ứng dụng và không có mối liên hệ nào giữa tiêu chuẩn của thạc sĩ và tiến sĩ. Thậm chí, quy định hiện hành của Bộ GD-ĐT cho rằng thạc sĩ là bậc học “tiếp theo” của tiến sĩ. Vì vậy, Bộ Giáo dục quy định ai muốn làm nghiên cứu sinh thì phải có bằng thạc sĩ. Cũng giống như trong bài “Hỗn loạn chức danh học đường”, tôi cũng đã đề cập đến các khái niệm liên quan, và bây giờ vấn đề định lượng chức danh thạc sĩ được tóm tắt như sau: thạc sĩ là người đã tốt nghiệp đại học và đang tiếp tục theo học các khóa chính khóa. Mở rộng và cập nhật những kiến ​​thức mới được phát triển trong lĩnh vực chuyên môn để có kiến ​​thức rộng và hiện đại hơn so với khi chưa tốt nghiệp đại học, nhằm nâng cao khả năng nghề nghiệp và đóng góp tốt hơn cho xã hội. VIII. Bằng tiến sĩ chuyên khoa Bằng tiến sĩ chuyên khoa là một loại bằng cấp xác nhận bằng tiến sĩ trong chuyên ngành của sinh viên. Những người nhận được chỉ định này không chỉ kiếm được bằng cấp bằng cách học tập. Họ được yêu cầu thực hiện nghiên cứu và tự phát triển kiến ​​thức mới trong ngành thông qua nghiên cứu khoa học để khám phá kiến ​​thức mới trong danh mục học thuật chuyên ngành của ngành mà chưa ai trên thế giới biết đến. Với cách giải thích như vậy, sinh viên tốt nghiệp đại học được trang bị tốt để bắt đầu nghiên cứu sâu ngay lập tức. Bạn có thể trở thành nghiên cứu sinh tiến sĩ mà không cần bằng thạc sĩ, bởi vì bất kỳ ai đã tốt nghiệp đại học đều có quyền và khả năng trở thành nghiên cứu sinh và nghiên cứu sinh. Tuy nhiên, cũng cần lưu ý rằng những người chuyển từ thạc sĩ sang tiến sĩ ngay lập tức sẽ có lợi thế hơn trong giai đoạn [quyết định] chọn hướng đi và xác định chủ đề cụ thể. Vì vậy, theo ý kiến ​​của tác giả, không nên coi bằng thạc sĩ là “thứ yếu” so với bằng tiến sĩ. Điều 9 、 Học vị tiến sĩ liên ngành (*) Sau khi có bằng tiến sĩ chuyên khoa, nếu học vị tiến sĩ chuyên khoa tiếp tục nghiên cứu một đề tài nào đó để mở rộng phạm vi nghiên cứu ra ngoài phạm vi chuyên môn, nhằm tìm ra kiến ​​thức liên ngành mới. , để Loại bỏ thành công điểm nghẽn trong phát triển sản xuất.

Hoặc sự phát triển xã hội liên quan đến kiến ​​thức chưa biết của một số ngành kế cận, chúng ảnh hưởng lẫn nhau để tạo thành một loại sản phẩm nhất định, hoặc thông qua một số hoạt động liên ngành, một tiến sĩ chuyên nghiệp sẽ lấy bằng tiến sĩ liên ngành. Chỉ khi lượng chức danh được thống nhất trên phạm vi cả nước thì các sở giáo dục và đào tạo mới có cơ sở khoa học để biên soạn các quy hoạch nền từ thấp đến cao, xác định và xử lý chính xác, đáp ứng yêu cầu phát triển của toàn xã hội. .

(*) Chức danh được sử dụng phổ biến nhất là Tiến sĩ Khoa học.

Related Articles

Back to top button