Năng lực cạnh tranh là gì? Các yếu tố cấu thành, cấp độ năng lực cạnh tranh?

Khi nền kinh tế tiếp tục phát triển, các chủ doanh nghiệp cần tạo ra năng lực của riêng mình để cạnh tranh với các đối thủ trên cùng thị trường. Tùy thuộc vào từng ngành hàng, người tiêu dùng sẽ dựa trên những khả năng đã được chứng minh để đánh giá sản phẩm. Vì vậy, năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp có vai trò rất lớn đối với nền kinh tế trong nước và thậm chí cả thế giới.

Tư vấn pháp luật qua điện thoại : 1900.6568

Cơ sở pháp lý:

  • Đạo luật Cạnh tranh 2018;

1. Khả năng cạnh tranh là gì?

Tính cạnh tranh là sức mạnh và lợi thế của kỷ luật, nhưng không phải đối thủ. Tính cạnh tranh thường nảy sinh trong các mối quan hệ kinh doanh, ở đó các đối thủ cạnh tranh với nhau về một sản phẩm hoặc dịch vụ nhất định, từ đó tạo ra sản phẩm và dịch vụ tốt hơn để thu hút người tiêu dùng.

Hiện nay, về năng lực cạnh tranh của nền kinh tế thị trường nước tôi, phạm vi được xác định trong từng quốc gia, từng ngành, từng doanh nghiệp.

Theo Cộng đồng Cạnh tranh Quốc gia, khả năng cạnh tranh là khả năng thành công trên thương trường để cải thiện mức sống của mọi người, xuất phát từ mức độ cạnh tranh của công ty và môi trường kinh doanh. Tăng năng suất, thu nhập thực tế và phát triển bền vững.

Competitiveness được dịch sang tiếng Anh như sau: Tính cạnh tranh

Khái niệm về năng lực cạnh tranh được dịch sang tiếng Anh:

Khả năng cạnh tranh là sức mạnh và lợi thế của chủ đề này, nhưng các đối thủ cạnh tranh thì không. Cạnh tranh thường xảy ra trong các mối quan hệ kinh doanh, trong đó các đối thủ cạnh tranh với nhau về một sản phẩm hoặc dịch vụ nhất định để có được nhiều sản phẩm và dịch vụ tốt hơn nhằm thu hút người tiêu dùng.

2. Các thành phần và mức độ cạnh tranh:

I. Các yếu tố cấu thành khả năng cạnh tranh

Đối với các công ty kinh doanh trên cùng một thị trường, việc họ phải cạnh tranh với các đối thủ cùng ngành trên thị trường là điều tất yếu. Các thành phần của khả năng cạnh tranh được thể hiện qua:

1. Chất lượng sản phẩm và uy tín thương hiệu doanh nghiệp được coi là yếu tố quyết định đáng kể đến sự cạnh tranh lâu dài. Thương hiệu được xây dựng dựa trên uy tín, chất lượng sản phẩm lâu năm và các yếu tố quyết định khác tạo nên thương hiệu. Vì vậy, để có một thương hiệu uy tín thì thương hiệu có yếu tố quan trọng quyết định. Nếu sản phẩm được tạo ra và bán trên thị trường nhưng đánh giá về chất lượng sản phẩm thấp, không có sự yêu thích của người tiêu dùng về giá cả, chất lượng, chăm sóc khách hàng, … thì làm thế nào để tạo ra một thương hiệu có tác động đến thị trường.

Thứ hai, Có thể kết nối với các doanh nghiệp khác và hội nhập kinh tế quốc tế. Mạng lưới giao lưu, trao đổi, mua bán hàng hóa với các nước sẽ tạo ra năng lực cạnh tranh mà ít doanh nghiệp nào có thể xây dựng được. Trong kinh doanh, thường phải liên minh và hợp tác giữa nhiều đối tác để nâng cao năng lực cạnh tranh. Việc hợp tác với các công ty nước ngoài không chỉ thể hiện chất lượng sản phẩm tốt, mà còn giúp tăng lượng khách hàng, có thể tiêu thụ với giá cao hơn thị trường trong nước, từ đó mở rộng quy mô, mạng lưới kinh doanh hàng hóa.

ba yếu tố không thể không kể đến đó là trình độ nhân lực, vốn và công nghệ của doanh nghiệp. Một công ty quy tụ nhiều nhân tài chắc chắn sẽ tạo ra giá trị và tạo ra chiến lược kinh doanh hiệu quả để tạo ra những sản phẩm chất lượng cao và tăng năng suất.

Thứ hai, mức độ cạnh tranh

Hiện tại, khả năng cạnh tranh có thể được chia thành ba cấp độ

I. Cấp quốc gia

Năng lực cạnh tranh quốc gia được hiểu là được xây dựng dựa trên các trụ cột của diễn đàn kinh tế nổi tiếng của một quốc gia, khi đó năng lực cạnh tranh quốc gia là hệ thống thể chế, chính sách và quy định tạo ra mức sản lượng của một quốc gia. Nói cách khác, một nền kinh tế cạnh tranh có xu hướng có thể cung cấp cho công dân của mình mức thu nhập cao hơn, tỷ lệ tái đầu tư cao hơn, và do đó có khả năng tăng trưởng nhanh hơn trong trung và dài hạn.

Do đó, năng lực cạnh tranh quốc gia là khả năng một quốc gia đạt được mức sống nhanh, bền vững và vượt trội sau một thời gian dài có việc làm. Hay có thể hiểu qua giá trị, mức sống, nguồn thu nhập của người dân trong nước.

Nhiều quan điểm cũng cho rằng năng lực cạnh tranh của một quốc gia còn thể hiện ở hiệu quả sản xuất của quốc gia đó. Nguồn ảnh hưởng đến năng lực này dựa vào nguồn nhân lực, vốn và nguồn lực quốc gia hoặc các chính sách hỗ trợ hoạt động đầu tư và thu hút đầu tư nước ngoài.

Thứ hai, khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp

Năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp thể hiện ở khả năng sinh lời của các nguồn vốn do doanh nghiệp đầu tư vào hoạt động sản xuất kinh doanh. Khả năng cạnh tranh ở cấp độ này phần lớn được phản ánh qua lợi nhuận, chi phí, năng lực và thị phần. Các yếu tố ảnh hưởng đến khả năng này là quản lý nhân sự, tài chính, bộ phận bán hàng, kiến ​​thức kỹ thuật, khả năng dự đoán nhu cầu thị trường. Các tiêu chí cụ thể để đánh giá năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp như sau:

  • Năng suất lao động: Đây được coi là yếu tố ảnh hưởng đến khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp. Sức lao động được tính toán dựa trên số liệu thống kê về số lượng và giá trị của sản phẩm được tạo ra trong một khoảng thời gian xác định. Để đạt được năng suất lao động, người quản lý doanh nghiệp phải tuyển chọn và đào tạo người lao động, trình độ quản lý của cán bộ cao cấp và trình độ phát triển công nghệ của doanh nghiệp.
  • Thị phần: Thị phần là một yếu tố cực kỳ quan trọng để đánh giá khả năng cạnh tranh của một công ty trên thị trường. Mỗi doanh nghiệp sẽ có một thị phần nhất định, và thị phần của doanh nghiệp là thị phần của doanh nghiệp trên toàn bộ thị trường doanh nghiệp.
  • Thương hiệu của doanh nghiệp. : Chúng ta thường nghe đến rất nhiều thương hiệu nổi tiếng, và hầu hết những thương hiệu này đều đã ra đời từ rất lâu và được rất nhiều người quan tâm. Trong thời đại công nghệ phát triển ngày nay, các sản phẩm và dịch vụ có thương hiệu đã được quan tâm và phổ biến nhiều hơn. Khi sản phẩm và dịch vụ được khách hàng và công chúng quan tâm và tin tưởng thì doanh nghiệp càng có sức cạnh tranh trên thị trường.
  • Lợi nhuận và Lợi nhuận ký quỹ

Một điều thu hút nhiều nhà đầu tư và nhiều người là lợi nhuận, tức là phần thu nhập còn lại sau khi trừ đi tất cả các chi phí kinh doanh. Tỷ suất lợi nhuận là hiệu quả mà vốn được sử dụng ở mức lợi nhuận được tạo ra. Do đó, khi lợi nhuận và tỷ suất lợi nhuận của một công ty càng cao thì công ty đó càng có khả năng cạnh tranh trên thị trường.

Năng lực cạnh tranh giúp các công ty tạo ra các sản phẩm và dịch vụ đáp ứng nhu cầu của người tiêu dùng và thu hút khách hàng mục tiêu; giúp các công ty đạt được nhiều doanh thu và lợi nhuận hơn so với các đối thủ cạnh tranh, đồng thời nâng cao vị thế và vị thế của mình trên thị trường.

Thứ hai, cấp ngành

Cạnh tranh trong ngành cũng được coi là cạnh tranh giữa các doanh nghiệp thuộc các ngành sản xuất khác nhau với mục đích đầu tư sinh lời nhiều hơn, từ đó tạo ra nhiều lợi nhuận hơn. Khả năng cạnh tranh của sản phẩm được quyết định bởi tỷ lệ phần trăm thị phần của sản phẩm đó trên thị trường. Các nhà nghiên cứu sẽ xem xét đánh giá các tính năng của sản phẩm dựa trên chi phí và năng suất của doanh nghiệp so với các đối thủ cạnh tranh.

Khi sản phẩm hoặc dịch vụ của doanh nghiệp được sử dụng hoặc tiêu thụ rộng rãi, nó sẽ làm tăng khả năng cạnh tranh trong ngành của sản phẩm hoặc dịch vụ, do đó làm tăng và thúc đẩy khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp. thị trường trong nước cũng như phần còn lại của thế giới.

3. Hành vi liên quan đến cạnh tranh không lành mạnh bị nghiêm cấm:

1. Các cơ quan nhà nước có hành vi cản trở cạnh tranh trên thị trường sau đây:

  • Ép buộc, yêu cầu, khuyến nghị doanh nghiệp, cơ quan, tổ chức, cá nhân thực hiện hoặc không thực hiện sản xuất, mua bán hàng hóa, cung ứng, sử dụng các dịch vụ cụ thể để mua, bán hàng hóa, cung ứng và sử dụng dịch vụ cụ thể của doanh nghiệp, khu vực độc quyền nhà nước hoặc luật Ngoại trừ hàng hóa và dịch vụ trong trường hợp khẩn cấp cụ thể;
  • Sự phân biệt đối xử giữa các doanh nghiệp thể hiện ở các ưu đãi về thuế, ưu tiên trong thủ tục hành chính, phê duyệt dự án …
  • Buộc, yêu cầu, khuyến nghị các hiệp hội ngành hàng, các tổ chức xã hội nghề nghiệp khác hoặc các doanh nghiệp hợp lực để hạn chế cạnh tranh thị trường;
  • Lạm dụng quyền lực, can thiệp trái pháp luật vào các lĩnh vực cụ thể của nước mình không cho phép doanh nghiệp chỉ được phép một doanh nghiệp để kinh doanh một số mặt hàng và các doanh nghiệp khác không được phép cạnh tranh hoặc đe dọa chủ doanh nghiệp. Bán hàng giá cao, v.v. Điều kiện doanh nghiệp khác bán hàng hóa …
  • Tổ chức, cá nhân cung cấp thông tin, vận động, kêu gọi, cưỡng chế, tổ chức cho doanh nghiệp thực hiện hành vi chống cạnh tranh, cạnh tranh không lành mạnh.

Thứ hai, cạnh tranh không lành mạnh bị nghiêm cấm

– Vi phạm thông tin bí mật thương mại dưới hình thức:

+ Bằng cách chống lại các biện pháp bảo mật của chủ sở hữu thông tin, sử dụng thiết bị và phần mềm can thiệp trực tiếp vào phần mềm quản lý nội bộ của doanh nghiệp để lấy và thu thập thông tin bí mật trong doanh nghiệp, ngay cả khi hành vi đó là không được phép.

+ Tiết lộ hoặc sử dụng thông tin bí mật trong kinh doanh mà không được phép của chủ sở hữu thông tin. Sử dụng thông tin thu được để trao đổi, mua bán nhằm tạo lợi thế cho các đối thủ cạnh tranh của doanh nghiệp.

– Đe dọa hoặc ép buộc khách hàng, đối tác kinh doanh của một doanh nghiệp khác, ngừng giao dịch hoặc ngừng giao dịch với doanh nghiệp đó.

– Cung cấp thông tin sai lệch về doanh nghiệp khác bằng cách trực tiếp hoặc gián tiếp cung cấp thông tin sai lệch về doanh nghiệp đó gây ảnh hưởng xấu đến danh tiếng, tình trạng tài chính hoặc hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp đó.

– Cản trở hoặc can thiệp trực tiếp hoặc gián tiếp vào hoạt động kinh doanh hợp pháp của các doanh nghiệp khác, do đó làm gián đoạn hoạt động kinh doanh của các doanh nghiệp khác. Sử dụng chức vụ kiểm sát viên để cản trở hoạt động kinh doanh của công ty hoặc gây hỗn chiến, gây rối trật tự công ty, làm giảm danh dự, nhân phẩm của công ty.

– Thu hút khách hàng bất hợp pháp bằng cách:

+ So sánh sản phẩm, dịch vụ của mình với các doanh nghiệp cùng loại nhưng không chứng minh được nội dung. Các doanh nghiệp thường có hành vi tạo ra các kênh truyền thông để quảng cáo sản phẩm nhưng lại đưa vào những so sánh về chất lượng sản phẩm, thành phần sản phẩm hay giá cả, từ đó tạo ra bất lợi cho đối thủ và gia tăng giá trị. Đồ vật của bạn.

– Bán hàng hóa hoặc cung cấp dịch vụ dưới mức giá đầy đủ, dẫn đến hoặc có khả năng dẫn đến việc loại trừ các doanh nghiệp khác kinh doanh hàng hóa hoặc dịch vụ thuộc loại đó.

– Các hành vi cạnh tranh không lành mạnh mà pháp luật khác cấm.

Trên đây là lời khuyên của Yang về năng lực cạnh tranh là gì, các thành phần của nó và mức độ cạnh tranh. Mọi thắc mắc vui lòng liên hệ để được hướng dẫn chi tiết.

Để lại một bình luận

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *