nhất nguyên hay đa nguyên là những tầm nhìn chính trị khác nhau của các tầng lớp xã hội về thể chế chính trị của một quốc gia hoặc dân tộc trong những điều kiện lịch sử nhất định.
nhất nguyên là quan điểm khẳng định, thừa nhận một hệ tư tưởng, một đường lối của đảng đại diện cho một giai cấp về thể chế chính trị. cách tiếp cận này cho phép phát triển một hệ tư tưởng, một đảng thống nhất và lãnh đạo tuyệt đối đối với các giai cấp khác và đối với xã hội. thông qua nhà nước, đường lối của Đảng được cụ thể hóa, thể hiện sự tập trung ý chí và quyền lực của giai cấp thống trị. gắn với chủ nghĩa chính trị là đảng và nhà nước giữ vai trò lãnh đạo quản lý xã hội.
Chủ nghĩa đa nguyên là một tầm nhìn thừa nhận nhiều hệ tư tưởng và hình thức của các tầng lớp xã hội trong một thể chế chính trị. Do đó, tầm nhìn này đề xuất và công nhận rằng có nhiều đảng tham gia lãnh đạo, nhà nước có sự phân chia quyền lực theo ý kiến chính trị của các đảng trong xã hội.
Như vậy, sự phát triển của chính trị từ lịch sử đến nay, có hay không sự đa nguyên chính trị? Để hiểu điều này, trước tiên chúng ta phải phân tích bản chất của chính trị, đảng phái và nhà nước.
Khi nói về nhà nước và các đảng chính trị, các nhà kinh điển của chủ nghĩa Mác – Lê-nin đã chỉ ra rằng, các đảng chính trị và nhà nước chỉ là sự biểu hiện tập trung địa vị và ý chí của giai cấp thống trị về kinh tế. chỉ có giai cấp có sức mạnh về kinh tế mới có thể tổ chức đảng và bộ máy nhà nước. do đó, nhà nước mang bản chất của giai cấp kinh tế thống trị. không có đảng, không có nhà nước mà không có giai cấp. được xác định bởi cơ sở kinh tế, các nhà nước có nguồn gốc từ sở hữu tư nhân chỉ có tính cách của một giai cấp. Do đó, trước khi nhà nước vô sản ra đời, một kiểu nhà nước mới khác với những kiểu trước đó, trong lịch sử có ba kiểu nhà nước: Nhà nước chủ nô, Nhà nước phong kiến và Nhà nước tư sản. .
Về cơ bản, kể từ khi chính trị xuất hiện, không có đa nguyên chính trị. hình thức trạng thái đã liên tục thay đổi trong mỗi trạng thái, nhưng điều đó không làm thay đổi bản chất của trạng thái. Các chính sách trên thế giới ngày nay, dù đa đảng, nhưng thực chất là chủ nghĩa chính trị. các đảng phái và phe phái được coi là đối lập với từng hình thức chính quyền ở các nước tư bản ngày nay chỉ là đối lập với chiến lược trong một số lĩnh vực cụ thể.
một số quốc gia vẫn có chế độ quân chủ lập hiến hoặc quân chủ nghị viện, đây không phải là chế độ đa nguyên chính trị thực sự. quân chủ lập hiến là hình thức tổ chức nhà nước giữ nguyên vai trò của vua hoặc quân chủ từ thời phong kiến, nhưng quân chủ không nắm thực quyền mà quyền lực chủ yếu ở nghị viện, do đảng phái tôn giáo đa số lãnh đạo; đảng này cũng có quyền tự điều chỉnh hoặc liên minh với các đảng khác để thành lập chính phủ. thủ tướng thường thuộc về đảng đa số.
Trong chế độ quân chủ lập hiến, vua hoặc hoàng hậu là nguyên thủ quốc gia, nhưng xét về quyền lực thì nó chỉ mang tính biểu tượng, đại diện cho truyền thống gia đình và sự đoàn kết của dân tộc.
Sử dụng cơ sở kinh tế để giải thích sự ra đời và bản chất của chính trị, các nhà kinh điển của chủ nghĩa Mác – Lê-nin chỉ ra rằng chính trị phản ánh kinh tế, nó là biểu hiện tập trung của kinh tế, hạt nhân là chế độ sở hữu. Nghiên cứu sự ra đời của nhà nước chủ nô, chế độ phong kiến và nhà nước tư sản, Mác và Ph.Ăngghen chỉ ra rằng chính tư hữu quyết định tính chất nhà nước của một giai cấp và quyết định sự thống nhất của nhà nước về chính trị.
với những nhà nước mang tính chất giai cấp, bất công, áp bức, bóc lột, xa lánh công việc, phân biệt đối xử … do các tầng lớp còn lại trong xã hội không có điều kiện thực hiện lợi ích của mình, không bộc lộ suy nghĩ của mình vì họ. không có tư liệu sản xuất chính. do đó, để xóa bỏ bất công, áp bức, bóc lột, xa lánh công việc, phân biệt đối xử, v.v., không phải là thay đổi hình thức nhà nước, luật pháp hay giải quyết lợi ích cụ thể mà phải xóa bỏ tư hữu.
Do đó, nhà nước xã hội chủ nghĩa ra đời trên cơ sở công hữu sẽ giải quyết được các hiện tượng xã hội phức tạp xuất phát từ các chế độ xã hội trước đó. quyền lực của nhà nước vô sản (sau này là nhà nước xã hội chủ nghĩa) không thuộc về một giai cấp nào mà là của toàn dân. nhà nước vô sản vẫn mang bản chất của giai cấp công nhân, nhưng giai cấp công nhân có sự thống nhất cơ bản về lợi ích và hệ tư tưởng phản ánh ý chí, nguyện vọng của các giai cấp xã hội. sở dĩ giai cấp vô sản (nhà nước xã hội chủ nghĩa) vẫn mang bản chất của giai cấp vô sản (giai cấp công nhân) là vì giai cấp vô sản mang bản chất của giai cấp cách mạng, là phương thức sản xuất, là thế hệ mới, là giai cấp đại diện cho xu hướng tiến bộ của xã hội. .
mặt khác, đã viết v.i. Lê-nin, chủ nghĩa xã hội là sự xóa bỏ các giai cấp nhưng không thể xóa bỏ tất cả cùng một lúc, các giai cấp sẽ tiếp tục tồn tại trong thời kỳ độc tài của giai cấp vô sản. bộ mặt của từng giai cấp và mối quan hệ qua lại giữa các giai cấp cũng thay đổi, cuộc đấu tranh giai cấp vẫn chưa kết thúc “nó chỉ đơn giản diễn ra dưới những hình thức khác” [1]. tình huống đó phải có một kiểu lãnh đạo xã hội.
nhà nước vô sản (nhà nước xã hội chủ nghĩa) mang bản chất của giai cấp công nhân. điều này không làm mất lòng nhân dân như nhiều luận điệu xuyên tạc về nhà nước vô sản, cho rằng nhà nước vô sản không mất bản chất giai cấp và chỉ nhằm khôi phục chế độ giai cấp, duy nhất giai cấp vô sản.
Những luận điệu xuyên tạc, phản đối đòi đa nguyên chính trị, đa đảng đối lập ở Việt Nam cũng cho rằng theo thuyết marxist, chính trị phản ánh kinh tế và tài sản, nên nếu kinh tế ra đời trước thì kinh tế Việt Nam chỉ có nhà nước. kinh tế, sở hữu nhà nước là chủ nghĩa chính trị, sự lãnh đạo của đảng là phù hợp. Nhưng kể từ khi nền kinh tế Việt Nam đổi mới với nhiều thành phần, hình thức sở hữu đa dạng, chắc chắn nền chính trị phải đa nguyên, đa đảng để phù hợp với lý luận của chủ nghĩa Mác.
cần nhận thức rằng, đúng là chính trị phản ánh kinh tế, nhưng chính trị không phản ánh tất cả các mặt kinh tế mà chỉ là biểu hiện tập trung của kinh tế, tức là các quan hệ kinh tế cơ bản, quan trọng nhất là vấn đề tài sản. . Mặc dù ở Việt Nam hiện nay có nhiều thành phần kinh tế và nhiều hình thức sở hữu nhưng sở hữu toàn dân vẫn là hình thức chủ đạo của các hình thức sở hữu khác. tư liệu sản xuất chủ yếu của xã hội vẫn tập trung trong tay nhà nước: bộ máy đại diện cho nhân dân, quản lý và điều hành. Vì vậy, trên thực tế, ở Việt Nam không có đa nguyên kinh tế nên chính trị cũng không thể đa nguyên.
Về mặt thực tiễn, nhiều quốc gia có hệ thống đa đảng trên thế giới không phải là bảo đảm cho sự ổn định chính trị và có thể giải quyết mọi vấn đề kinh tế – xã hội. các cuộc chiến tranh sắc tộc và tôn giáo, các phong trào ly khai, dân túy … diễn ra khắp nơi trên thế giới trong những thập kỷ gần đây là minh chứng cho điều này. Tất nhiên, mỗi hệ thống chính trị sẽ có những thuận lợi và khó khăn trong việc thực hiện đa đảng hay một đảng. Nhưng đóng vai trò to lớn đối với sự nghiệp cách mạng của dân tộc vì hạnh phúc của nhân dân suốt 90 năm qua, Đảng Cộng sản Việt Nam đã khẳng định rõ bản lĩnh, trí tuệ và tầm ảnh hưởng của Đảng Cộng sản Việt Nam. .
Từ những vấn đề lý luận và thực tiễn nêu trên, có thể nhận định rằng, quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam về thực hiện nhất nguyên chính trị, một đảng lãnh đạo là phù hợp với nhu cầu kinh tế, đáp ứng yêu cầu thực tiễn.
quang dang