Tác giả:Nguyễn Thị Tố Nga
Các quốc gia mới công nghiệp hóa (nics) hoặc các nền kinh tế mới công nghiệp hóa (nies) là thuật ngữ chỉ một nhóm quốc gia đã trải qua quá trình công nghiệp hóa. Đất nước đã có sự phát triển vượt bậc về kinh tế, chuyển từ trạng thái của một nước đang phát triển lên trình độ phát triển của một nền kinh tế phát triển. Một số tài liệu của Việt Nam còn gọi các nước này là “các nước công nghiệp mới”.
Thuật ngữ “các quốc gia công nghiệp hóa mới” đã được sử dụng phổ biến từ những năm 1970. Có nhiều ý kiến khác nhau về những gì tạo nên nhóm quốc gia này, nhưng có sự đồng thuận rằng bốn quốc gia bao gồm Đài Loan, các vùng lãnh thổ Đông Á bao gồm Hàn Quốc, Hồng Kong, và Singapore Đây là một quốc gia mới công nghiệp hóa. Bốn quốc gia và khu vực Đông Á này còn được gọi là “Bốn con hổ châu Á”.
Trong số bốn con hổ châu Á, Hồng Kông là một trường hợp đặc biệt. Trước hết, Hồng Kông là một lãnh thổ, không phải một quốc gia. (Đài Loan, chủ yếu vì lý do chính trị, cũng thường được gọi là một lãnh thổ hơn là một quốc gia, nhưng nhiều người vẫn coi Đài Loan là một quốc gia độc lập trên thực tế, đặc biệt là về mặt kinh tế). Thứ hai, không giống như ba quốc gia còn lại, sự trỗi dậy của Hồng Kông là nhờ vai trò là trung tâm tài chính và thương mại, đặc biệt là điểm trung chuyển hàng hóa từ Trung Quốc và Đông Á nói chung.
Đối với ba nền kinh tế mới công nghiệp hóa còn lại ở châu Á, ngành chế tạo được coi là động lực phát triển kinh tế do có lợi thế so sánh về chi phí đầu vào tương đối so với các nước công nghiệp hóa. Có thể kể đến nhiều ngành sản xuất đóng góp vào sự phát triển kinh tế của các quốc gia này như sản xuất và chế tạo ô tô, sản xuất điện và điện tử tiêu dùng, đóng tàu, chế tạo…, sản xuất thép và dệt may. Bên cạnh đó, hệ thống chính trị ổn định và nền kinh tế mở thuận lợi cho việc thu hút vốn đầu tư nước ngoài cũng là những yếu tố quan trọng giúp kinh tế các quốc gia này phát triển mạnh mẽ.
Người ta cũng lập luận rằng Chiến tranh Triều Tiên và Chiến tranh Việt Nam có tác động lâu dài đến sự thành công của bộ tứ nói trên. Gói viện trợ trị giá 8 tỷ USD cung cấp cho khu vực từ năm 1953 đến năm 1969 đã đóng một vai trò quan trọng trong sự phát triển của bốn nền kinh tế. Ngoài ra, nhóm này được hưởng ưu đãi khi tiếp cận thị trường Nhật Bản và Hoa Kỳ, nơi có nhu cầu rất lớn về hàng tiêu dùng giá rẻ.
Cũng có những ý kiến đi tìm câu trả lời cho sự thành công của nhóm nước này trong các chiến lược phát triển kinh tế mà chính phủ các nước và vùng lãnh thổ kể trên đã thực hiện. Có hai chiến lược phổ biến. Một là chiến lược công nghiệp hóa thay thế nhập khẩu. Do đó, các chính phủ đã cố gắng thuyết phục các công ty địa phương và các công ty con của các tập đoàn đa quốc gia xây dựng các nhà máy sản xuất sản phẩm cho tiêu dùng trong nước. Thuế nhập khẩu cao cũng được áp đặt để bảo vệ ngành công nghiệp non trẻ trong nước. Chiến lược thứ hai là phát triển hướng về xuất khẩu. Các chính phủ sẽ sử dụng điều này để xác định một số ngành mà họ tin rằng sẽ có thể cạnh tranh thành công trên thị trường thế giới. Những ngành công nghiệp đó sau đó sẽ nhận được trợ cấp và các ưu đãi khác từ nhà nước.
Một số yếu tố khác cũng được coi là quan trọng đối với sự phát triển kinh tế của nhóm quốc gia và khu vực này, bao gồm tỷ lệ tiết kiệm cao và mối quan hệ chặt chẽ giữa chính phủ và giới. Tinh thần kinh doanh, cam kết cao đối với giáo dục, một nhà nước độc đoán và khả năng kiểm soát chặt chẽ hoạt động công đoàn. Thành công của nhóm nước và khu vực này còn là nhờ vận dụng thành công các nguyên tắc của chủ nghĩa tự do kinh tế và học tập thành công mô hình phát triển của Nhật Bản.
Sự phát triển của các nước công nghiệp mới đã thách thức mô hình phụ thuộc của các nước thế giới thứ ba. Mô hình này giả định mối quan hệ mật thiết giữa tâm trí và ngoại vi. Tương ứng, các nước thế giới thứ ba (ngoại vi) cung cấp nguyên liệu và sản phẩm sơ cấp cho các nước phát triển (tâm), trong khi các nước phát triển (trung tâm) cung cấp vốn, công nghệ và các sản phẩm giá trị gia tăng cho các nước ngoại vi với giá cao hơn nhiều lần. và lợi nhuận. Vì sự phụ thuộc lẫn nhau này, các nước thế giới thứ ba không thể thoát khỏi đói nghèo. Tuy nhiên, các nước công nghiệp hóa mới của châu Á đã chỉ ra rằng các nước ngoại vi có thể phá vỡ sự phụ thuộc.
Thành công của các nước công nghiệp mới cũng gây ra phản ứng từ các nước công nghiệp phát triển đang “tấn công thị trường nội địa” bằng cách gia tăng các biện pháp bảo hộ thương mại với lý do hàng hóa nhập khẩu “rẻ hơn”. Ngoài ra, có ý kiến cho rằng nhiều nước mới công nghiệp hóa không nên tiếp tục được coi là nước đang phát triển.
Bốn con hổ châu Á được coi là thế hệ đầu tiên của các quốc gia công nghiệp hóa mới. Những quốc gia này hiện được phân loại là những quốc gia có thu nhập bình quân đầu người cao hơn. Hàn Quốc hiện là thành viên của Tổ chức Hợp tác và Phát triển Kinh tế (oecd). Hiện nay, người ta thường chấp nhận rằng các nền kinh tế mới nổi như Ấn Độ, Brazil, Mexico và Trung Quốc cũng có thể được coi là NIC.
Nguồn:dao minh hong – le hong hiep (eds.), Sổ tay thuật ngữ quan hệ quốc tế, (tphcm: Đại học qhqt – Đại học Bách Khoa, tphcm, 2013).