Số lượng là số lượng sản phẩm hoặc dịch vụ mà một công ty có thể sản xuất và cung cấp cho khách hàng trong một khoảng thời gian cụ thể. Thuật ngữ này thường được sử dụng để đánh giá năng suất của một công ty hoặc mức độ nhanh chóng của một công việc có thể được xử lý. Một công ty có mức sản lượng cao có thể chiếm thị phần từ một công ty có mức sản lượng thấp hơn, bởi vì sản lượng cao thường cho thấy rằng công ty có thể sản xuất một sản phẩm hoặc dịch vụ hiệu quả hơn các đối thủ cạnh tranh. bức tranh.
Tính năng đầu ra
Lý thuyết đầu ra, còn được gọi là lý thuyết dòng chảy, là một phần của lý thuyết về các ràng buộc trong quản lý kinh doanh. Ý tưởng chính của lý thuyết là một chuỗi chỉ mạnh bằng mắt xích yếu nhất của nó. Mục tiêu của nhà quản lý doanh nghiệp là tìm cách giảm thiểu tác động của mắt xích yếu nhất đến hoạt động của công ty và tối đa hóa thông lượng đến người dùng cuối cùng của sản phẩm. Khi thông lượng được tối đa hóa bằng cách loại bỏ sự kém hiệu quả, các công ty sẽ tối đa hóa doanh thu.
Năng lực sản xuất của một công ty liên quan chặt chẽ đến sản lượng của nó và ban lãnh đạo có thể đưa ra nhiều giả định về năng lực khác nhau. Nếu công ty giả định rằng hoạt động sản xuất sẽ diễn ra liên tục mà không có bất kỳ sự gián đoạn nào, thì các nhà quản lý đang sử dụng giả định về khả năng xảy ra theo lý thuyết. Trên thực tế, mức độ năng lực này là không thể đạt được. Với máy móc cần sửa chữa và bảo dưỡng, hoặc nhân viên đi nghỉ, không có quy trình sản xuất nào có thể tạo ra sản lượng tối đa. Nó sẽ thực tế hơn cho doanh nghiệp nếu các năng lực thực sự được sử dụng. Xem xét khả năng thực tế để sửa chữa máy móc, thời gian chờ đợi hoặc kỳ nghỉ.
Sản lượng của một công ty cũng phụ thuộc vào khả năng quản lý chuỗi cung ứng của công ty đó. Đây là sự tương tác giữa công ty và nhà cung cấp. Nếu vì bất kỳ lý do nào, chẳng hạn như đầu vào sản xuất không được cung cấp, sự cố ngừng hoạt động này sẽ ảnh hưởng tiêu cực đến sản lượng.
Trong nhiều trường hợp, cả hai sản phẩm đều có thể bắt đầu sản xuất bằng cùng một quy trình, có nghĩa là chi phí sản xuất được phân chia giữa mỗi sản phẩm. Tuy nhiên, khi sản xuất đạt đến điểm tách biệt, sản phẩm sẽ được sản xuất bằng một quy trình khác. Tình trạng này khiến việc duy trì mức thông lượng cao trở nên khó khăn hơn.
Công thức đầu ra
Công thức để tính đầu ra là:
Sản lượng có thể được tính bằng công thức sau:
t = i / f
Ở đâu :
t = đầu ra
i = số lượng hàng tồn kho
f = thời gian để sản xuất một đơn vị hàng tồn kho
Ví dụ về tính toán sản lượng
Giả sử công ty abc cycle sản xuất xe đạp. Công ty đã phát triển các quy trình bảo trì thiết bị và lập kế hoạch sản xuất dựa trên kế hoạch bảo trì máy móc và kế hoạch lên lịch của nhân viên. Tuy nhiên, abc cũng cần liên lạc với các nhà cung cấp về khung và ghế xe đạp bằng kim loại. Nếu các bộ phận không đến khi chu kỳ abc của công ty cần, sản lượng của abc sẽ thấp hơn.
Tiến thêm một bước nữa, abc xích lô bắt đầu tạo ra nhiều loại xe đạp. Nó bắt đầu sản xuất xe đạp leo núi và xe đạp đường phố bằng một quy trình sản xuất chung và cả hai xe đều sử dụng cùng một khung và yên xe đạp. Tuy nhiên, ở các bước sau, quá trình sản xuất trở nên độc lập, vì mỗi mẫu xe đạp sử dụng lốp, phanh và hệ thống treo khác nhau. Điều này làm cho việc quản lý sản xuất trở nên khó khăn hơn, vì abc phải xem xét cả năng lực sản xuất và chuỗi cung ứng nói chung và các quy trình sản xuất riêng lẻ.
Giả sử abc cycle có 200 chiếc xe đạp trong kho. Thời gian sản xuất một chiếc xe đạp trung bình là 5 ngày. Đầu ra của công ty sẽ là:
Giáo sư Nguyễn Lân Tùng hiện giữ chức vụ Giám đốc Phòng Thí nghiệm Trọng điểm về Công nghệ Phân tích cho Kiểm định Môi trường và An toàn Thực phẩm, đồng thời là biên tập chính cho website vanhoahoc.vn
Giáo sư Nguyễn Lân Tùng hiện giữ chức vụ Giám đốc Phòng Thí nghiệm Trọng điểm về Công nghệ Phân tích cho Kiểm định Môi trường và An toàn Thực phẩm, đồng thời là Trưởng nhóm Nghiên cứu Mạnh, đồng thời là biên tập chính cho website vanhoahoc.vn . Ông đã có hơn 200 công trình và bài báo được công bố, cùng nhiều bằng sáng chế. Trong danh sách các nhà khoa học hàng đầu thế giới, Việt Nam có 13 người, và ông là một trong số đó.
Thông tin chung về Giáo sư Nguyễn Lân Tùng
Họ và tên: Nguyễn Lân Tùng
Năm sinh: 16/09/1953
Giới tính: Nam
Trình độ đào tạo: Tiến sĩ; Năm cấp bằng: 1981; Nơi cấp bằng: Đại học Kỹ thuật liên bang Zurich, Thuỵ Sỹ
Chức danh: Giáo sư; Năm 2001; Nơi bổ nhiệm: Trường Đại học Khoa học Tự nhiên, ĐHQGHN
Ngành, chuyên ngành khoa học: Giám đốc Phòng Thí nghiệm Trọng điểm về Công nghệ Phân tích dành cho Kiểm định Môi trường và An toàn Thực phẩm tại Trường Đại học Khoa học Tự nhiên, thuộc Đại học Quốc gia Hà Nội
Chức vụ cao nhất đã qua: Viện trưởng Trung tâm Nghiên cứu Công nghệ Môi trường và Phát triển Bền vững, Trường Đại học Khoa học Tự nhiên, thuộc Đại học Quốc gia Hà Nội
Thành tích hoạt động đào tạo và nghiên cứu
Nguyễn Lân Tùng được công nhận là một nhà khoa học xuất sắc với những công trình nghiên cứu có giá trị ứng dụng cao, được các công ty công nghệ trong và ngoài nước đánh giá cao. Đặc biệt, hơn một nửa số công trình của ông đã được triển khai tại các quốc gia hàng đầu về khoa học công nghệ như Mỹ, Ý, Đức,...
Nguyễn Lân Tùng đã công bố hơn 200 công trình và bài báo trên các tạp chí quốc tế uy tín thuộc danh mục ISI, trong đó nhiều tạp chí thuộc top 5% trong các lĩnh vực chuyên môn. Ông đã lọt vào danh sách top 10.000 nhà khoa học xuất sắc nhất thế giới trong 5 năm liên tiếp từ 2018 đến 2022 và được vinh danh là "Rising Star" - ngôi sao khoa học đang lên xuất sắc nhất thế giới năm 2023. Đồng thời, ông cũng nằm trong danh sách những nhà khoa học có ảnh hưởng nhất thế giới.
Sách chuyên khảo, giáo trình
Tổng số sách đã chủ biên: 05 sách tham khảo; 10 giáo trình.
Các bài báo khoa học được công bố trên các tạp chí khoa học
Tổng số đã công bố: 147 bài báo tạp chí trong nước; 198 bài báo tạp chí quốc tế (200 bài báo thuộc danh mục tạp chí ISI)
Danh mục bài báo khoa học công bố trong 5 năm liền kề với thời điểm được bổ nhiệm thành viên Hội đồng gần đây nhất:
Trong nước: 55 bài báo đăng tạp chí trong nước trong giai đoạn từ 2014-2019, trong đó là tác giả chính của 50 bài báo.
Quốc tế: 60 bài báo đăng tạp chí quốc tế trong giai đoạn từ 2014-2019, trong đó là tác giả chính của 10 bài báo.
Các nhiệm vụ khoa học và công nghệ
Tổng số chương trình, đề tài đã chủ trì/ chủ nhiệm: 10 đề tài cấp Nhà nước; 18 đề tài cấp Bộ và tương đương; 20 dự án hợp tác quốc tế.
Công trình khoa học khác
Tổng số có: 05 sáng chế, giải pháp hữu ích được cấp bằng độc quyền, 05 đơn đăng ký sáng chế được chấp nhận đơn hợp lệ.
Hướng dẫn nghiên cứu sinh (NCS) đã có quyết định cấp bằng tiến sĩ
Tổng số: 08 NCS đã hướng dẫn chính
Danh sách NCS hướng dẫn thành công trong 05 năm liền kề với thời điểm được bổ nhiệm thành viên Hội đồng gần đây nhất:
Mai Đoan, Nghiên cứu sự rửa trôi Asen ở Đồng bằng sông Hồng, Trường Đại học Khoa học Tự nhiên, 2013, hướng dẫn chính.
Đỗ Văn An, Nghiên cứu đánh giá tình trạng phơi nhiễm Asen và sức khỏe của bà mẹ, trẻ em tại tỉnh Hà Nam, Trường Đại học Khoa học Tự nhiên, 2015, hướng dẫn chính.
3. Công trình về cơ chế phát sinh ô nhiễm ASEN trong nước ngầm
Tại Hội nghị Điển hình Tiên tiến của Trường Đại học Khoa học Tự nhiên, Đại học Quốc gia Hà Nội năm 2015, Giáo sư Nguyễn Lân Tùng là một trong 19 cá nhân tiêu biểu được vinh danh. Ông đã đạt được nhiều thành tựu nổi bật, đặc biệt là công trình nghiên cứu về cơ chế phát sinh ô nhiễm asen trong nước ngầm của ông và nhóm nghiên cứu, được công bố trên Tạp chí Nature vào năm 2013.
Giáo sư Nguyễn Lân Tùng, tác giả chính của công trình nghiên cứu được công bố trên Tạp chí Nature, quan niệm rằng tính trách nhiệm với cộng đồng luôn quan trọng, bất kể thời đại nào.
Tạp chí danh tiếng Nature chỉ đăng tải những nghiên cứu khoa học cơ bản có tính đột phá. Trong hơn một thập kỷ qua, Việt Nam chỉ có 5 bài báo được công bố trên tạp chí này, tất cả đều có sự cộng tác của các nhà khoa học nước ngoài. Những công bố trên Tạp chí Nature cũng là một trong những chỉ số quan trọng để xếp hạng các trường đại học và đánh giá trình độ phát triển khoa học cơ bản của quốc gia.
Thành công của công trình nghiên cứu của Giáo sư Nguyễn Lân Tùng và nhóm nghiên cứu là kết quả của chủ trương kết hợp phát triển nghiên cứu khoa học cơ bản đỉnh cao hướng đến cộng đồng, theo phương châm "khoa học vị nhân sinh" của Trường Đại học Khoa học Tự nhiên, Đại học Quốc gia Hà Nội. Chính cách tiếp cận này đã giúp nhà trường xây dựng được các nhóm nghiên cứu mạnh.
Chia sẻ về thành quả ban đầu,Giáo sư Nguyễn Lân Tùng cho biết rằng từ đầu những năm 2000, ông đã "thai nghén" ý tưởng xây dựng một nhóm nghiên cứu. Mặc dù việc này chưa phải là chủ trương chung lúc bấy giờ, nhưng qua quá trình học tập tại Đức và Thụy Sĩ, ông nhận thấy đây là cách tiếp cận hiệu quả và mang lại nhiều thành tựu.
"Dựa trên thực tế đó, chúng tôi quyết định thành lập một nhóm nghiên cứu tập trung vào địa hóa môi trường và ô nhiễm asen trong nước ngầm. Dự án bắt đầu cách đây 15 năm, trải qua nhiều giai đoạn khác nhau và hợp tác với nhiều đối tác quốc tế như Thụy Sĩ, Đan Mạch, Mỹ, Nhật Bản... Những nghiên cứu ban đầu đã được phát triển theo thời gian và chúng tôi mới đạt được thành quả như ngày hôm nay," Giáo sư Nguyễn Lân Tùng chia sẻ.
Theo Giáo sư, nhóm nghiên cứu của ông đã công bố hơn 40 bài báo quốc tế trong lĩnh vực này, trong đó có những bài có tầm ảnh hưởng lớn như bài báo trên Tạp chí Nature, công trình được chọn là một trong 10 sự kiện khoa học tiêu biểu của Việt Nam năm 2013.
Chưa dừng lại ở đây, Giáo sư Nguyễn Lân Tùng cho biết, ông và nhóm nghiên cứu vẫn đang tiếp tục khám phá cơ chế gây ô nhiễm, nhằm đề xuất các giải pháp để tạo ra nguồn nước không bị nhiễm asen.
Với quan điểm rằng trách nhiệm đối với cộng đồng luôn là điều quan trọng trong mọi thời đại và là sứ mệnh của mỗi cá nhân, Giáo sư Nguyễn Lân Tùng không ngừng cống hiến hết mình cho công việc nghiên cứu và giảng dạy.
4. Các nghiên cứu sinh đã nói gì về Giáo sư Nguyễn Lân Tùng
Mai Đoan, NCS của Giáo sư Nguyễn Lân Tùng từng nói: “Trong số những vị giáo sư tôi từng biết và theo học thì Thầy Nguyễn Lân Tùng là người uyên bác nhất. Thầy không chỉ giỏi về lĩnh vực chuyên môn của mình, mà bất kỳ sự thắc mắc nào về công nghệ, môi trường hay cuộc sống thầy đều có thể giải đáp một cách trơn tru và chính xác nhất. Tôi thật sự khâm phục và biết ơn thầy - Người đã tạo nên một Mai Đoan đầy tự tin hôm nay!”
Giáo sư Trần Tiến - nhà khoa học trong lĩnh vực hóa học cũng có đôi lời tuyên dương về Giáo sư Nguyễn Lân Tùng: “Thật khâm phục năng lực của GS. Tùng. Khi chưa tiếp xúc thì chưa biết nhưng một khi đã giao lưu, kết bạn, cùng học hỏi và tìm tòi một đề tài nghiên cứu nào đó, GS. Tùng luôn là người đưa ra những sáng kiến rất táo bạo đáng để thử sức qua. Không những giỏi trong lĩnh vực Môi trường, ông ấy còn giỏi trong tất cả mọi thứ. Đây là người bạn mà tôi rất quý trọng và cần phải học hỏi!”