Học vẽ – Trang trí ứng dụng

trang trí ứng dụng

một số nguyên tắc về kiểu chữ

chữ cái (in) là một hình thức trang trí. bản thân chữ nho là một dạng hội họa, sự hình dung của sự vật. chẳng hạn chữ mộc là cây, chữ nói là miệng, chữ điền là ruộng. chữ nho còn được viết bằng bút lông đẹp như vẽ nên người ta ví chữ như rồng bay, phượng múa. chỉ có văn bản của bài báo này là bản in gốc. Chúng ta thường thấy chữ này trên các tờ báo, nhất là các loại chữ lớn, nó là một mặt của các hình ảnh trang trí, nó góp phần đắc lực vào các hình ảnh trang trí có chữ bên trong, như khẩu hiệu, áp phích, bìa sách, băng rôn, áp phích, .v.v … v .. Chính vì vậy người trang trí phải biết cách vẽ chữ, tạo phông chữ. Ngày nay, chúng ta thấy có rất nhiều kiểu chữ khác nhau, ngay cả trong một tờ báo, một loại sách được tạo sẵn hoặc phông chữ máy tính, người vẽ cần phải biết các kiểu chữ để lựa chọn và sắp xếp cho phù hợp với bố cục trung tâm của trang báo…. thể hiện nội dung của bài báo, sách thông qua kiểu chữ. ngay cả trong một cách diễn đạt trong cửa hàng, một tấm áp phích, chỉ cần một nét vẽ đẹp nhưng từ ngữ xấu, không phù hợp thì vẻ đẹp sẽ bị giảm đi rất nhiều. do đó, người họa sĩ cần phải biết cách vẽ hoặc chọn bản in, biết phông chữ.

i – gốc phông chữ

Mặc dù chúng tôi thấy nhiều phông chữ, nhưng trong bài viết này chúng tôi chỉ nói về các chữ cái Latinh, nguồn gốc của chúng bắt nguồn từ hai phông chữ:

– từ châu Âu (europa)

– chữ cái la mã.

Kiểu chữ Châu Âu là một nét thẳng, còn được gọi là dùi cui vì nó giống một cây gậy. và các chữ cái La Mã có các nét lớn và nhỏ kết hợp với nhau. Với hai kiểu chữ gốc này, nhiều kiểu chữ khác nhau được hiển thị. nó có kiểu sửa đổi một chút, chẳng hạn như kiểu chữ serif và sans serif. Các chữ cái Châu Âu có các đường cong nhưng chuyển sang các góc như o, g, c.

Văn bản in là một dạng sáng tạo, vì vậy bạn cần phải cẩn thận về sự cân bằng của từng từ, cũng như từng từ, từng câu.

ii – đặc điểm của từ

Nghệ thuật vẽ chữ cũng như trang trí nói chung là một nghệ thuật tinh tế, uyển chuyển, không cứng nhắc ở những đặc điểm sau mà cũng chính từ những đặc điểm này cần phát huy tính sáng tạo, kết hợp với những nguyên tắc chung của trang trí.

1. các chữ cái: m – o nằm trong một hình vuông, các chữ cái khác có chiều rộng bằng 2/3 chiều cao.

2. Trong trường hợp các chữ cái nhọn như chữ v, phần đầu của các chữ m, n cao hơn một chút so với dòng. ngược lại là dưới dòng dưới cùng. chữ a và chữ v nên có chiều rộng hẹp hơn các chữ cái khác, vì nó có thóp ở một đầu nên hình như đầu kia rộng hơn chiều rộng của các chữ liền kề không có thóp như h. , n.

3. khoảng cách của mỗi chữ cái là 1/3 chiều cao của mỗi chữ cái. trường hợp phía trên chữ a và phía dưới như chữ v thì khoảng cách hẹp bằng ¼ chiều cao của chữ. khoảng cách giữa hai từ bằng 2/3 chiều cao của từ đó.

4. Tiếng Việt có nhiều âm nên chữ Việt có nhiều dấu. Dấu có thể được đặt trong chiều cao của chữ cái, không nhô ra thành khoảng cách dòng như trường hợp chữ, ứ.

Các chữ cái viết thường như chữ q hoặc dấu nặng (.) cũng có thể được đặt trong phạm vi văn bản, nhưng chữ cái y, chữ g được viết bằng chữ thường, không phải chữ hoa, không được đặt trên dòng. . Tất cả những cách đặt xuống hoặc lên trên một dòng phụ thuộc vào sự tương tác nhịp nhàng của từng từ và sự kết hợp của các từ. các trường hợp có thể áp dụng. nhưng có những lúc đặt dấu trên cùng một dòng gây nhầm lẫn và khó đọc, vì vậy không nên sử dụng.

5. kiểu phông chữ với các nét lớn, nét nhỏ, thường là nét lớn ở bên trái, chẳng hạn như các chữ có nét dọc và ngang như e, h, ba nét nghiêng và nét còn lại ở bên phải. và các chữ cái nhọn khác như chữ v cũng theo chữ n-m. chữ a đối lập với chữ in đậm ở bên phải (xem ví dụ về chữ cái)

iii – cách điệu

Mặc dù ứng dụng có thể linh hoạt về tỷ lệ theo chiều ngang và chiều dọc, khoảng cách từ và âm thanh, nhưng hãy lưu ý rằng đây là tỷ lệ để tạo sự cân bằng, dễ đọc và không cảm thấy lúng túng khi các chữ cái dài hoặc ngắn. ngay cả trong tình cảm này, chúng ta cũng nên chú ý đến nét ngang của những chữ này phải cao lên để tạo cảm giác nét chữ có thể mạnh mẽ, thoát tục, còn những nét ngang mà trầm, những nét quá thấp thì lại nặng nề. đồng thời ổn định. gold.

tỷ lệ trên một số chữ cái và khoảng cách có thể khác nhau, như chữ o tròn giữa n, h, chiều ngang hẹp không nằm trong hình vuông là tốt. nếu chữ o là hình bầu dục sẽ bằng chiều rộng của chữ bên cạnh n, h, nó tạo cảm giác chật hẹp trong văn bản, với các chữ c và g cũng trong trường hợp này. nhưng nếu chữ o bên cạnh hình bầu dục này có chữ i thì bạn sẽ không có cảm giác đó vì nó chỉ có một nét, không tạo cảm giác đè ép hai bên chữ o. mặt khác, các chữ cái o, g và c được bo tròn tạo nên vẻ đẹp như cánh bướm đẹp cho các đường nét dù chúng nghiêng hoàn hảo.

Để lại một bình luận

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *