Triết lý nhân sinh trong tư tưởng khoan dung tôn giáo của Hồ Chí Minh

Hồ Chí Minh đã kế thừa truyền thống tôn sư trọng đạo của dân tộc, phát triển và nâng lên thành tư tưởng cộng sản về đạo khoan dung với nhân loại. Đây là một trong những yếu tố góp phần hình thành triết lý sống Hồ Chí Minh. Chính triết lý sống ấy đã tạo nên giá trị nhân văn sâu sắc trong lòng bao dung tôn giáo của đồng bào, từ đó tạo điều kiện cho sự cố kết, đoàn kết đồng bào tôn giáo tham gia khối đại đoàn kết toàn dân tộc, phục vụ sự nghiệp cách mạng.

bh phat giao Bác Hồ với các đại biểu Hội Phật giáo Việt Nam, ngày 03/01/1957

Triết học được thể hiện trong nhiều lĩnh vực khác nhau của đời sống, bao gồm triết học nhân sinh, triết học vũ trụ, triết học kinh tế, triết học đạo đức, triết học lịch sử…

Theo từ điển tiếng Việt, triết lý sống được hiểu như sau: Đời người là đời mình. Góc nhìn của một người là quan điểm của một người khi đánh giá các khía cạnh của cuộc sống, và góc nhìn của một người là cách nhìn của một người về cuộc sống (1).

Hồ Chí Minh chưa bao giờ viết một tác phẩm nào, cũng không đọc một bài diễn văn nào để giới thiệu triết lý sống của mình. Tuy nhiên, triết lý nhân sinh này đã được thể hiện sinh động trong cuộc sống hàng ngày của nhân dân trong cuộc sống đấu tranh cách mạng không mệt mỏi. Triết lý sống ấy là sự kết tinh tinh hoa tư tưởng, đạo đức và tâm hồn cao thượng của các vĩ nhân, anh hùng giải phóng dân tộc, danh nhân văn hóa kiệt xuất. Giáo sư Trần Văn Giàu nhận xét: “Để tôi thấy cái thiên tài của nhà hiền triết là ở chỗ giải đáp mối quan hệ giữa tồn tại và tư duy, ở việc xác định thế giới là thực hay ảo, cái biết hay cái không biết, chọn một giáo điều quen thuộc hay sáng tạo ra cái mới, nhưng cuối cùng Ở mức độ quan tâm đến con người, con người thực sự sống trên trái đất này và phải sống lâu. Thời gian vô tận, với nó là trung tâm của mọi suy nghĩ và mục đích của mọi hành động. Bác He là loại thánh đó…”( 2 ).

Vì vậy, triết lý sống Hồ Chí Minh là những tư tưởng, quan điểm chung của nhân dân xét trên mọi phương diện của đời sống, quan niệm sống, tư tưởng tình cảm, ước mơ, nguyện vọng, lý tưởng của con người.

Ý tưởng về lòng khoan dung đã có từ rất sớm trong lịch sử loài người, cả ở phương Đông và phương Tây. Tuy nhiên, mãi đến năm 1995, Năm Quốc tế về Khoan dung của Liên hợp quốc mới đưa ra định nghĩa chính thức về lòng khoan dung: “Khoan dung là sự tôn trọng, công nhận và đánh giá cao sự phong phú và đa dạng của các nền văn hóa trên thế giới của chúng ta”. Đây không chỉ là nghĩa vụ đạo đức, mà còn là sự cần thiết về chính trị và pháp lý.” Tuyên bố của Ủy ban UNESCO Việt Nam nêu rõ: “Khoan dung là một hình thức tự do, tự do về tư cách và pháp luật. Người khoan dung là người biết kiểm soát suy nghĩ và hành động của mình, khoan dung là thái độ sống tích cực, không thiên vị hay chiếu cố người khác. Khoan dung là sự thừa nhận và chấp nhận sự khác biệt. Đó là học cách lắng nghe, cách giao tiếp và cách thấu hiểu người khác. Khoan dung có nghĩa là tôn trọng sự đa dạng văn hóa, cởi mở với các triết lý khác nhau, sẵn sàng học hỏi, làm giàu cho bản thân bằng cách học hỏi những điều hữu ích và không bác bỏ những gì mình không hiểu. Khoan dung là tôn trọng tự do của người khác. Khoan dung là sự thừa nhận rằng không một nền văn hóa hay dân tộc nào là duy nhất về tri thức và chân lý”. Do đó, về bản chất, khoan dung là thái độ tôn trọng sự khác biệt (chủng tộc, tín ngưỡng, tôn giáo, quan điểm chính trị và triết học). Học để đạt đến chiều sâu …) quan điểm khoan dung.Nói cách khác, khoan dung là thái độ dung hòa trong những khác biệt, để cùng tồn tại và phát triển trong hòa bình.

Trên tinh thần tiếp thu và kế thừa truyền thống khoan dung của dân tộc Việt Nam, Hồ Chí Minh đã xây dựng, thực hiện và phát huy văn hóa khoan dung lên một tầm cao mới với tư duy độc lập, sáng tạo. Chủ nghĩa cộng sản mới bao dung, đề cao và phát huy giá trị tích cực của tôn giáo trong đời sống xã hội. Vì vậy, khoan dung tôn giáo đã trở thành quy tắc đạo đức, nhân đạo để Cộng sản đối xử với đồng bào và chức sắc tôn giáo. Trong tư tưởng khoan dung tôn giáo của Người còn chứa đựng triết lý nhân sinh sâu sắc, Người cho rằng, tôn giáo là việc của con người và phục vụ con người. Cũng chính triết lý sống ấy đã tạo nên giá trị nhân văn sâu sắc trong tư tưởng tôn giáo khoan dung của nhân dân ta.

Triết lý nhân sinh trong tư tưởng khoan dung tôn giáo của Hồ Chí Minh thể hiện chủ yếu ở những nội dung cơ bản sau:

Thứ nhất, triết lý sống thể hiện ở việc tôn trọng quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo của mọi người. Hồ Chí Minh cho rằng tôn trọng tự do tín ngưỡng tức là tôn trọng nhân dân, tôn trọng nhu cầu tinh thần của một bộ phận nhân dân, tôn trọng quyền tự do, dân chủ trong đời sống văn hóa tinh thần của nhân dân. Hồ Chí Minh không ép buộc, ép buộc mọi người phải theo một hệ tư tưởng nhất định, mọi người được tự do nghiên cứu bất cứ hệ tư tưởng nào mà họ tin tưởng. Trả lời phỏng vấn của các phóng viên ở Rô-ma ngày 12-7-1946, Người nói: “Mọi người đều có quyền học giáo lý. Riêng tôi, tôi học chủ nghĩa Mác” (5) . Vì vậy, có thể nói quan điểm tôn trọng quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo của mọi người cũng chính là quyền tự do tư tưởng.

Đối với Hồ Chí Minh, tôn trọng quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo của con người là một trong những quyền cơ bản của con người, tôn trọng giá trị con người không chỉ là sự kiện, chính trị, tình huống. Nó thể hiện cái nhìn rộng lượng đối với những quan điểm khác biệt, tôn trọng niềm tin của người khác, không áp đặt quan điểm của mình lên người khác, rất không tương thích với mọi thái độ kỳ thị, cuồng tín, tôn giáo. Ý nghĩa sâu xa chứa đựng trong đó là triết lý sống, tầm nhìn nhân văn sâu sắc và tư tưởng bao dung tôn giáo của ông. Nhà sử học Greenton (người không đồng ý với Hồ Chí Minh) xác nhận điều này: “Về phần tôi, tôi phải nói rằng, tôi chưa bao giờ có lý do để nhận thấy bất kỳ dấu hiệu nào về kế hoạch của Hồ Chí Minh. liên quan đến bất kỳ ai thuộc bất kỳ tôn giáo nào.” Nghi ngờ hoặc chế giễu” (6).

Thứ hai,Hồ Chí Minh đánh giá cao người sáng lập tôn giáo, học thuyết chính trị – xã hội và những giá trị tích cực của nó. Diễn giả:

“Con đường của Khổng Tử có lợi thế trong việc tu dưỡng đạo đức cá nhân.”

Ưu điểm của sự dạy dỗ của Chúa Giê-xu là lòng từ bi bao la.

Chủ nghĩa Mác có điểm mạnh là phương pháp làm việc biện chứng.

Ưu điểm của tôn giáo là chính sách phù hợp với điều kiện nước ta.

Không phải Khổng Tử, Chúa Giê-su, Mác và Tôn Trung Sơn đều có những ưu điểm chung này sao? Họ đều muốn mưu cầu hạnh phúc cho nhân loại…Tôi cố gắng hết sức để trở thành học sinh tiểu học của họ” (7).

Hồ Chí Minh luôn kính trọng các bậc sáng lập tôn giáo và đề cao những giá trị trong giáo lý tôn giáo. Tôn trọng các nhà lãnh đạo tôn giáo là tôn trọng tín đồ tôn giáo, và tôn trọng giáo lý tôn giáo là tôn trọng niềm tin của họ. Triết lý sống trong tư tưởng tôn giáo khoan dung của Người là hiện thân của sự hài hòa, cộng sinh và cùng tồn tại. Mỗi chúng ta có thể có xuất thân, quan điểm và niềm tin khác nhau nhưng điều quan trọng là phải tôn trọng sự khác biệt, thích nghi và cùng tồn tại. Để làm được điều này, chúng ta phải tìm ra điểm chung cho sự tồn tại này. Hồ Chí Minh là người nhận thức sâu sắc nhất điểm chung này nên ở mỗi tôn giáo, những công lao mà Người chỉ ra không chỉ có giá trị đối với niềm tin của bản thân tôn giáo đó mà còn đối với sự tiến bộ của xã hội loài người. .đã viết: “Giêsu dạy: Đạo đức là từ thiện. Phật giáo Thích Ca dạy: Đạo đức là từ bi. Khổng Tử dạy: Đức là nhân từ” (8). Tư tưởng nhân đạo của Chúa Giêsu, tư tưởng từ bi bình đẳng của Phật Thích Ca, tư tưởng “xã hội hài hòa” của Khổng Tử đều phù hợp với mục tiêu lý tưởng của chủ nghĩa xã hội mà chúng ta đang xây dựng. Có thể thấy, tư tưởng về tôn giáo khoan dung của Hồ Chí Minh ẩn chứa một triết lý nhân sinh sâu sắc. Người ta cho rằng, mặt tích cực của các tôn giáo đều hướng tới những giá trị cơ bản của con người, giá trị nhân văn.

Hồ Chí Minh nhấn mạnh sự giống nhau về mục đích giữa tôn giáo và chủ nghĩa xã hội. Mục tiêu của nhà nước ta là phấn đấu giành độc lập, đem lại hạnh phúc cho nhân dân. Tuy nhiên, để thực hiện hạnh phúc của tất cả mọi người, chúng ta phải xây dựng chủ nghĩa xã hội. Nếu Chúa Giê-su sinh ra ở thời đại chúng ta và phải đặt mình trước nỗi đau khổ của những người đương thời, thì Người đã là một nhà xã hội chủ nghĩa trên con đường cứu độ nhân loại”(9).

Triết lý sống của Hồ Chí Minh là triết lý hướng tới mọi người có giá trị phổ quát trong xã hội, không hướng tới một cá nhân hay một nhóm người nào. Vì vậy, Hồ Chí Minh không chỉ tôn trọng các hồng y, giáo sĩ mà còn quan tâm sâu sắc đến đời sống của các tín hữu. Bác nhắc nhở, hướng dẫn cán bộ cơ sở quan tâm đến đời sống mọi mặt của bà con từ nơi ăn chốn ở đến việc học hành: tín đồ đi lễ không để đói rét, việc thờ cúng phải lo cho họ có “thân” vui và hạnh phúc. “Linh hồn”.

Gần gũi tôn giáo từ bình diện văn hóa, đạo đức, với triết lý sống: coi tôn giáo là vấn đề của con người và vì con người phục vụ; Thành phố Hồ Chí Minh giữ vững và phát triển các giá trị đạo đức tôn giáo, thu hút, quy tụ nhiều tăng ni, tăng ni và giáo dân. tham gia kháng chiến, kiến ​​quốc. Đây là cách giải quyết vấn đề tôn giáo đúng đắn trong tình hình mới, phù hợp với hoàn cảnh lịch sử của dân tộc và tâm lý, tình cảm của người dân Việt Nam.

Bên cạnh việc nhận thức, tôn trọng và vận dụng các giá trị, lý tưởng tôn giáo, Hồ Chí Minh còn khẳng định tôn giáo là một thành tố của văn hóa, một bộ phận của văn hóa, có đóng góp to lớn trong việc hình thành nhân cách và đời sống tinh thần của con người. . Từ đầu những năm 1940. Người đã viết: “Vì mục đích mưu sinh và sinh tồn, con người đã sáng tạo và phát minh ra ngôn ngữ, chữ viết, đạo đức, luật pháp, khoa học, tôn giáo, văn học, nghệ thuật và những phương tiện sinh hoạt hàng ngày về y phục, thức ăn, chỗ ở và phương pháp dụng, tất cả những sáng tạo, phát minh đó đều là văn hóa”(10). Vì vậy, tôn giáo bắt nguồn từ cuộc sống, bắt nguồn từ con người và phục vụ con người, tôn giáo là một thành tố tồn tại trong đời sống con người và là một bộ phận của văn hóa. Đây là quan điểm duy vật của Hồ Chí Minh, nhưng nó không mâu thuẫn với tôn giáo. Bởi, ẩn chứa trong quan điểm này là thái độ tôn sư trọng đạo và triết lý nhân sinh sâu sắc, thể hiện tính nhân văn của tư tưởng và con người Hồ Chí Minh.

Kế thừa triết lý sống từ tư tưởng Hồ Chí Minh về khoan dung tôn giáo, Đảng ta đặc biệt quan tâm phát huy những giá trị văn hóa, đạo đức tích cực của tôn giáo trong công cuộc chấn hưng đất nước. Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII nêu rõ: “Tiếp tục hoàn thiện chính sách, pháp luật về tín ngưỡng, tôn giáo, phát huy những giá trị văn hóa, đạo đức tốt đẹp của tôn giáo. điều lệ được nhà nước công nhận, góp phần xây dựng đất nước theo pháp luật, có công lao đóng góp tích cực cho sự nghiệp của đất nước”(11).

Thứ ba, khoan dung độ lượng với những kẻ vi phạm chính sách tôn giáo. Tư tưởng triết lý sốngTôn giáo khoan dung Hồ Chí Minh còn thể hiện ở thái độ của Người đối với các linh mục và giáo dân lầm đường lạc lối, nghe theo sự cám dỗ, cưỡng bức, áp lực của kẻ thù. Mọi người không những không bỏ rơi họ mà còn bày tỏ sự xót xa trước cảnh họ xa quê hương và muôn vàn gian khổ mà họ đã trải qua, đồng thời sẵn sàng đón họ trở về. Tác giả viết: “Số phận của những Kitô hữu này khiến tôi rất buồn, và tôi tin rằng đồng bào của tôi cũng có thể chiến đấu để trở về với đất mẹ. Tôi muốn nhân cơ hội này để nhắc nhở mọi người một cách rõ ràng rằng chính phủ của chúng tôi chân thành tôn trọng tự do tôn giáo của các Kitô hữu”. đồng bào đã di dời, chính quyền đã chỉ đạo đồng bào bảo vệ đúng mức ruộng vườn, tài sản của đồng bào, trả lại cho đồng bào trở về” (12) .

Hồ Chí Minh luôn có niềm tin vào nhân dân, bởi niềm tin ấy có cơ sở vững chắc, bắt nguồn từ triết lý sống đầy tính nhân văn sâu sắc của Người. Vì vậy, ông khẳng định: “Năm ngón tay cũng có ngón ngắn ngón dài… Trong hàng triệu người, có người này người kia, nhưng người ấy, người ấy đều là con cháu tổ tông ta, nếu lạc nhau thì sẽ Hãy xoa dịu họ bằng tình cảm” (13). Xuất phát từ niềm tin vào bản chất tốt đẹp vốn có của con người, Hồ Chí Minh chủ trương: tuy cần phải loại trừ những kẻ phỉ báng Thánh Allah, làm tay sai cho đế quốc, xúc phạm Thánh Allah, phản quốc, hại dân nhưng cũng phải khoan dung cho chúng. với những kẻ lầm đường lạc lối: “Trừ một số rất ít đồng bào Việt Nam, còn lại tất cả đồng bào ta đều có lòng yêu nước. Tuy có người lầm đường, nhưng theo thời gian, họ dần dần ngộ Đạo mà trở về quê hương” (14) . Vì vậy, đã thu hút đông đảo đồng bào, chức sắc tôn giáo tham gia khối đại đoàn kết toàn dân tộc, thực hiện thắng lợi mục tiêu của cách mạng Việt Nam.

Triết lý sống trong tư tưởng Hồ Chí Minh về khoan dung tôn giáo là di sản tư tưởng quý báu được Đảng, Nhà nước ta kế thừa và vận dụng vào việc thực hiện chính sách tôn giáo, đại đoàn kết dân tộc Việt Nam. Đực ở giai đoạn này./.

_______________________

Đã đăng trên Tạp chí Lý luận chính trị số 5, năm 2017

(1) Xem Nguyễn Lân: Từ Điển Từ Điển Tiếng Việt, Nxb Thành Phố Hồ Chí Minh, 2000, tr 1317.

(2) Chủ tịch Hồ Chí Minh – Anh hùng giải phóng dân tộc, Nhà văn hóa lớn, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội, 1990, tr.287.

(3), (4) song thanh: Bảo tàng Văn hóa tiêu biểu Hồ Chí Minh, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2010, tr.142, 142-143.

(5), (13) “Hồ Chí Minh Toàn tập”, T.4, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2011, tr 315, 280.

(6) Thiên Đỉnh, Thập Tam Tỉnh, Nxb Trẻ, Thành phố Hồ Chí Minh, 1988, tr 73.

(7), (9) Trung tâm Khoa học Xã hội Nhân văn Quốc gia, Viện Tôn giáo: “Hồ Chí Minh về Tôn giáo và Tín ngưỡng” (Tái bản lần thứ hai, có bổ sung), Nhà xuất bản Khoa học Xã hội, 1998, tr 185, 79.

p>

(8) “Hồ Chí Minh Toàn tập”, T.7, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2011, tr 95.

(10) Phần thứ ba của “Hồ Chí Minh Toàn tập”, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2011, tr 458.

(11).

(12) “Hồ Chí Minh Toàn tập”, T.9, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2011, tr 206.

(14) Hồ Chí Minh: Toàn tập, t. 5, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2011, tr.516.

ts nguyễn xuân trung

Viện Khoa học Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh

Nguồn http://lyluanchinhtri.vn

đường hoàng long (đường)

Related Articles

Back to top button