Tìm hiểu trí vô lậu và tam vô lậu học trong giáo lý đạo Phật

& gt; Quý Phật tử có thể đọc thêm các bài viết về Phật học tại đây

Mùa xuân đang đến, xuân vui tràn ngập khắp nơi khiến lòng người xao xuyến. một mùa xuân mới đã về khơi dậy lòng người, lòng các tầng lớp, các dân tộc. mùa xuân đến cùng với mọi thứ liên quan đến mang thai và sinh nở, mọi người cũng hướng về tương lai.

Để có một tương lai tốt đẹp trên đường đời nói chung và của những người thực hành con đường giác ngộ-giải thoát, chúng ta cần phải có trí tuệ soi sáng con đường phía trước của mình. Nhân dịp đầu xuân mới, quý độc giả và các bạn hãy dành chút thời gian tìm hiểu một chút về trí tuệ bất lưu thông qua tam học mà đức Phật đã đề cập trong lời dạy.

Như chúng ta đã thấy, trong kinh Phật từ lâu ở nước ta thường sử dụng chữ Hán, việc xác định ý nghĩa thường khó khăn do đặc thù của ngôn ngữ này. Trong khi đó, giáo lý nhà Phật sâu sắc, nếu không hiểu rõ sẽ dẫn đến suy nghĩ sai lầm. thì khi chúng ta hiểu được thế nào là tam vô lậu học và trí tuệ, chúng ta đã phần nào hiểu được ý nghĩa sâu xa và tuyệt vời của phật pháp. bởi vì trí tuệ Phật giáo cần trí tuệ của trí tuệ con người.

Vậy khi hiểu được thế nào là tam vô lậu học và trí tuệ vô lậu là chúng ta đã nắm được phần nào ý nghĩa thậm thâm vi diệu của Phật pháp. Bởi đạo Phật minh triết cần đến sự sáng suốt của trí tuệ con người.

Vậy khi hiểu được thế nào là tam vô lậu học và trí tuệ vô lậu là chúng ta đã nắm được phần nào ý nghĩa thậm thâm vi diệu của Phật pháp. Bởi đạo Phật minh triết cần đến sự sáng suốt của trí tuệ con người.

sự khôn ngoan vô đạo đức là gì? và tại sao nó được gọi là bất hợp pháp?

Trước khi vào nội dung bài viết, chúng ta cần tìm hiểu khái niệm ngữ nghĩa qua từ điển Phật học. theo học giả doan trung cũng vậy: không lậu (anasvara) là không lậu, không phải lậu; nghĩa là, không bị nhiễm bẩn; trái với sở hữu bất hợp pháp.

Khi con người chưa đạt đến “tam vô lậu học” tức là giới, định, tuệ) thì con người do “phiền não (tham, sân, si) phải ngày đêm phát sáu (6) tạng: mắt (mắt), tai (tai), tỷ (mũi), lưỡi (lưỡi), thân (thân), ý (ý nghĩ) cứ tiết ra, chảy và lưu chuyển không ngừng: đó là lậu. p>

lại phiền não: “khiến con người ta lạc lối, đọa vào ba đường ác (ba đường ác) và sáu nẻo luân hồi – đó là lậu.”

vì vậy mới nói rằng có những người bình thường chưa hết phiền não, còn dính mắc và vẫn còn rơi vào vòng đau khổ. còn người không lưu thông là người đã dứt phiền não, thoát khỏi vòng luân hồi, tức là giới không còn hữu lậu, thanh tịnh. Ngược lại với “ứng sinh là người không đoạn trừ phiền não, nhưng nuôi dưỡng dục vọng. Cầu được nhiều phước hơn, nhưng không được từ ba cõi. Trong khi những người vô đạo đức theo con đường không tìm kiếm phước lành trong tam giới!”

vậy thì trí tuệ không bị hư hoại tức là không có lậu hoặc (bản chất đã thoát khỏi phiền não) là trí tuệ trong sáng, thanh tịnh không có bất kỳ tạp chất nào: đó là trí tuệ của những người đã thành tựu thánh thiện. đó là những bậc không ngã mạn mà tu ba yếu tố (giới, định và tuệ). thông qua tâm trí này, người ta có thể nhìn thấy những gì người khác không thể nhìn thấy.

thì thế giới tôn vinh 49 năm tu luyện chỉ có một mục đích duy nhất đó là giáo hóa, tức là dạy chúng sinh tu hành “đắc tri kiến ​​phật” để chúng sinh thấy được dược tính thần kỳ. . của trái tim của người ta. nói cách khác, là đưa người bình thường (từ tri thức chưa hoàn thiện) trở thành tri thức tối thượng, trí tuệ tối thượng. Để làm được điều này, Phật giáo chia việc học thực tại hoàn toàn thống nhất này thành ba khía cạnh: đạo đức, định lực và trí tuệ. đối với những người đã xuất gia từ thuở theo tông phái không quên lời của tổ tiên: “như lai đáp ứng lập giáo, phòng ngự mộc, phòng tà, nhị thiền định, vọng tưởng, cuối cùng đạt được trí tuệ, phá vỡ hay kiểm nghiệm chân lý… ”Làm sao một vị tu sĩ tại gia có thể loại bỏ năm giới, mười đức và tâm bồ tát?

Mục đích cuối cùng mà người ta tuyên bố là phá vỡ hay chứng ngộ chân pháp, muốn đạt được mục đích đó thì phải dựa vào trí tuệ, trí tuệ ở đây không phải là kiến ​​thức và kinh nghiệm thông thường của thế gian, mà là trí tuệ ngoài tầm. thế giới, trong đạo Phật gọi là trí tuệ vô ngại. Nếu muốn vào được trí tuệ đó, trước hết phải dùng thiền định để bám rễ, tập trung tư tưởng và gạt bỏ những vọng tưởng sai lầm thì tự nhiên trí tuệ sẽ được phát hiện và hiển thị. nhưng trí tuệ và thiền định được sinh ra từ việc thực hành giữ giới. do đó, điều đầu tiên là phải thọ giới viên mãn mang mộc (prastimoksa-patimokkha) để loại bỏ các hành vi xấu, ngăn chặn các hành vi xấu, thứ hai, sử dụng thiền định để những vọng tưởng sâu xa không phát sinh, và cuối cùng, cùng nhau sử dụng. thanh kiếm sắc bén. khôn ngoan để vượt qua sự lừa dối của sự thật.

như chúng ta đều biết, nền giáo dục của thế giới có trước phép xã giao. phép tắc của thế gian, giới luật đứng đầu, không có nghi thức gì trở nên sáng suốt. nếu bạn có giới luật bạn có thể nhanh chóng đi đến bồ đề, đó là lý do tại sao các kinh điển nói “sila là chiếc thang, là con thuyền của mọi con đường và hoa quả, là gốc rễ của mọi kết quả tốt đẹp”. nếu bạn không giữ giới, làm sao bạn có thể thấy được Phật tánh? chúng sinh tuy có phật tánh nhưng phải giữ giới thì mới thấy được. thấy bản chất Phật trở thành một vị bồ đề không giống ai.

Nếu không giữ giới luật thì làm sao thấy được Phật tính. Chúng sinh tuy có Phật tính, nhưng phải giữ giới thì sau đó mới thấy. Thấy Phật tính mới thành vô thượng Bồ đề.

Nếu không giữ giới luật thì làm sao thấy được Phật tính. Chúng sinh tuy có Phật tính, nhưng phải giữ giới thì sau đó mới thấy. Thấy Phật tính mới thành vô thượng Bồ đề.

giới (sila): thường được hiểu là luân lý, luật luân lý. sila ban đầu có nghĩa là bản chất là một thói quen, vì vậy giới là một thực tế với các quy luật vận hành rất tự nhiên. Về mặt ý nghĩa, giới luật là tích cực làm điều thiện, ngăn chặn mọi điều ác để thanh tịnh (thân, khẩu, ý). giới còn được gọi là bal-la-de-moc-sa hoặc phóng xuất đặc biệt, bao gồm các giới luật được ghi trong giới luật.

Giải thoát riêng là giữ từng giới riêng biệt để giải thoát một phần bản thân. Phật tử tại gia có năm giới, mười điều thiện và phát tâm bồ tát.

theo giới luật của các Tỳ khưu, trong 12 năm đầu tiên không được gọi là Tỳ khưu, trong Tăng đoàn không có vấn đề gì. sau 12 nam, co nguoi dan ong phai co gang lam viec. để đáp ứng yêu cầu thanh tịnh và hòa hợp, giới luật đã được hình thành. cơ sở của giới luật là giáo dục tối thiểu. thiếu ham muốn là ít khao khát những gì chưa có. bằng lòng là biết đủ cho những gì đã có. nếu bớt dâm thì không phạm giới. giữ giới là giáo dục tối thiểu, và không hơn gì. do đó trong kinh Phật có chép: kẻ ít ham muốn thì đừng hòng thu phục lòng người. cũng không bị các giác quan cuốn đi … mong muốn nhỏ nhất là có được niết bàn. Cho nên, lời Phật dạy “sống bần hàn, duy trì đạo đức, chỉ có trí tuệ mới là sự nghiệp”.

tập trung (samadhi) có ý nghĩa chung của thiền định (dhyana) samadhi là sự tập trung, sự tập trung, tính đơn hướng với ý định nhấn mạnh sự cô đọng. tập trung là bản chất yên tĩnh, giống như – giống như thị trường hiện tại. Đối với một cá nhân, sự tập trung là một trạng thái tinh khiết, tập trung, ổn định và sâu sắc. nếu tâm trí có sự tập trung, nó sẽ bình yên, không lo lắng và trao đổi, không nghi ngờ và sợ hãi, có sự tập trung mới để hiểu sự việc, để truyền đạt thực tế.

trí tuệ (prajna, panna) là cái biết, soi sáng, hiểu biết mọi sự vật, đồng nhất với mọi sự vật. trí tuệ là cái biết, cái thấy “tai nghe pháp như cái thấy”. Nhờ thực hành thiền định, chân tâm được sáng tỏ, đại trí vô nhiễm hiển lộ, tự nhận biết vạn pháp, chứng ngộ bốn sự thật, tất cả vọng niệm hay tác dụng của tội lỗi đều được tiêu trừ. các khía cạnh tinh thần chú ý đến nơi cao siêu.

Nói chung, giới luật là học về các quy tắc sống của những người xuất gia trong tăng đoàn, hoặc những người xuất gia về những điều tốt nên làm và những điều xấu cần tránh và giữ (thân và tâm) cho thanh tịnh. tập trung là nghiên cứu về thiền định để thân tâm được bình an. trí tuệ là sự nghiên cứu lời dạy của nhà phật, người có cái nhìn đúng đắn, có trí tuệ xác định vô ngại để nhận ra chân lý cuối cùng, đó là giải thoát khỏi niết bàn.

Mỗi giai đoạn của quá trình giới-định-tuệ là một chuỗi liên kết chặt chẽ và tương hỗ. trong đạo đức phải có định và trí tuệ, trong định phải có đạo đức, trí tuệ, và tất nhiên trong trí tuệ phải có đạo đức và định lực. Các thiền sư đã so sánh giới-định-tuệ như một chiếc kiềng ba chân, không thiếu một chiếc chân nào. hơn nữa, người con phật tu hành, nếu có trí tuệ định mà không giữ giới, thì trí tuệ định đó chỉ là định sai, là tà kiến ​​của người lạ. vì vậy hãy giữ vững lập trường! giữ chặt thanh gươm trí tuệ được mài sắc trong đá thiền định để chấm dứt mọi tà dâm.

do đó, ba nghiên cứu chống buôn người là một phương pháp mà Đức Phật đã trải qua và nhận ra trí tuệ thực sự của sự chuyển hóa dưới gốc cây bồ đề. do đó, các học viên nên luôn kết hợp chặt chẽ ba chủ đề đó. không được loại trừ một người, nếu thiếu một người thì mục tiêu cuối cùng là giải phóng và hòa bình sẽ không bao giờ đạt được.

nhân dịp đầu xuân tìm hiểu giáo lý nhà phật, chúng tôi không hẹp hòi vui vẻ có thêm chút thời gian để đọc và suy ngẫm về chủ đề trí tuệ của nhà phật, đó là tam minh . sáu cây thông được đề cập dưới đây để chúng ta có thể hiểu thêm về sự khôn ngoan của việc không buôn lậu.

Tam vô lậu học là một pháp môn mà đức Phật đã đi qua và được thực chứng trí huệ Chánh biến tri dưới cội Bồ đề.

Tam vô lậu học là một pháp môn mà đức Phật đã đi qua và được thực chứng trí huệ Chánh biến tri dưới cội Bồ đề.

với tam minh lục thông, thế giới được tôn vinh một người đã hiểu được quá khứ, tương lai và ba ngàn đại ngàn thế giới. không có pháp nào ngăn trở, không có pháp nào mà người thế gian không thấy rõ, nên các đệ tử của ông thường gọi ông là pháp vương.

như vậy, tam minh: sinh mệnh thức, thiên nhãn và ý thức mâu thuẫn đây là nội dung của phật giác ngộ. Đặc biệt, chỉ có chư Phật mới sở hữu đầy đủ tam tuệ, mặc dù trên con đường tu luyện tam tuệ chúng luôn được coi là thành quả cuối cùng của một hành giả đã giác ngộ. đây có thể là một trong những điều phân biệt vị phật với đệ tử. quá trình chiếu sáng bắt đầu từ:

“Tách khỏi pháp bất thiện, chứng và trụ trong sơ thiền. sự ngừng áp dụng và sự suy nghĩ là sự an trú thứ hai trong thiền định. tách niềm vui và an trú, chánh niệm và sáng suốt, chánh niệm bình đẳng về phúc lạc và an trú, thành tựu thiền thứ ba, an nhiên và tự do khỏi đau khổ, chấm dứt cảm giác vui và buồn trước đây, thành tựu và an trú trong thiền thứ tư, không khổ cũng không vui, chú ý thuần túy đến sự bình tĩnh.

Đức Phật và các đệ tử cao quý của ngài đã thông qua thiền thứ tư, trên cơ sở thiền định thứ tư, tâm bình tĩnh và dẻo dai, hành giả có thể hướng tâm mình đến các đối tượng của sáu thần thông hoặc ba trực giác, nhận ra. của nhận thức cuối cùng. sau.

Trong kinh điển nguyên thủy, không có ghi chép nào về bất kỳ đệ tử thánh thiện nào tuyên bố đã đạt được tam minh. họ thường được miêu tả là đã đạt được trạng thái A la hán, đã trải qua sự chấm dứt của cuộc sống và tư tưởng, và sự loại bỏ các lậu hoặc (tương đương với sự hiểu biết đầy đủ về các lậu). Trong Sáu Kinh Thanh Tịnh (Core Sutras), Đức Phật đã dạy về quá trình tu luyện của một vị Tỳ khưu, khi vị ấy đã đạt được thiền định thứ tư, “với tâm an tịnh, thanh tịnh, không ô uế, không phiền não, dẻo dai, sử dụng như vậy. một thái độ vững vàng, tâm bình tĩnh và ổn định, tôi dẫn tâm (chỉ những người hành thiền) về phía cuối tâm. Tôi biết nó thực sự như thế nào: đây là đau khổ, đây là nguyên nhân của đau khổ, đây là sự chấm dứt đau khổ, đây là con đường dẫn đến sự chấm dứt đau khổ. biết thực hư thế nào, đây là buôn lậu, đây là nguyên nhân của buôn lậu, đây là buôn lậu hoặc nó bị tận diệt, đây là con đường dẫn đến buôn lậu hoặc nó bị tận diệt. ”

Đức Phật và các Thánh đệ tử đều đi qua Tứ thiền, trên cơ sở thiền thứ Tư, tâm định tĩnh và nhu nhuyễn, hành giả có thể hướng tâm đến các đối tượng Sáu Thần thông hay Ba minh, chứng ngộ tối hậu.

Đức Phật và các Thánh đệ tử đều đi qua Tứ thiền, trên cơ sở thiền thứ Tư, tâm định tĩnh và nhu nhuyễn, hành giả có thể hướng tâm đến các đối tượng Sáu Thần thông hay Ba minh, chứng ngộ tối hậu.

Như vậy, các đệ tử cần phải thoát khỏi “dục lậu, lậu tài và tham dục vô minh để đạt được” đoạn cuối sinh, đời sống thánh thiện, việc làm được thành tựu; không trở lại trạng thái này nữa. ”

Từ đó, chúng ta có thể thấy rõ rằng khả năng huyền diệu của các đệ tử là có hạn, và vấn đề thành tựu tâm linh không liên quan đến khả năng của thần thông. do đó, chúng tôi không ngạc nhiên khi thấy rằng người ta nói rằng mr. muc kiền liên là đệ tử số một trong các thánh đệ tử, nhưng nhà phật không khuyến khích đệ tử nhập vào các thần thông như: thần thông, thiên nhãn, tâm khác, thọ mạng và thiên nhãn; Ngài tập trung vào việc khuyến khích các đệ tử của mình hướng tâm trí của họ đến các lãnh vực của trí tuệ để đạt được mục tiêu cuối cùng là giải thoát khỏi sinh tử. khả năng siêu nhiên không giúp được gì cho một người chưa loại bỏ được những tạp chất ra khỏi tâm trí; mặt khác, thần thông đối với những người còn nuôi dưỡng căn bệnh lậu nói trên, sẽ chỉ làm tăng thêm bản ngã, cản trở sự giác ngộ – giải thoát.

đầu xuân, khi nói đến trí tuệ đã lâu, người viết cũng xin bàn về chủ đề tại sao ngày nay, cộng đồng Âu Mỹ đang bộc lộ rất nhiều trí tuệ của Phật giáo. và thông qua việc nghiên cứu giáo lý nhà Phật họ đặt ra câu hỏi: tại sao trí tuệ Phật giáo lại có những điều huyền bí và tiên đoán mà quá xa triết học nói chung và triết học đương đại ngày nay? nếu phải so sánh (nghĩa là chỉ có các nhà nghiên cứu triết học phương tây) thì họ cho rằng triết học đương đại hiện đang “bế tắc” vì những điều cần nói đã nói rồi và không còn gì để nói, và họ cho là hiện tại. hiện thực triết học “như một con rắn ngoe nguẩy ngoáy đuôi” nếu không muốn nói là khô héo. bởi vì triết học hiện đại không có hệ thống tư tưởng về giới – định – tuệ, tức là trí tuệ vô vi hay còn gọi là (trí tuệ vô sư) như Phật giáo. và hiện nay triết học và khoa học phương Tây đang giao tiếp với nhiều đối tượng thuộc nhiều phạm trù với mục đích tìm tiếng nói chung với Phật giáo để giải thích những vấn đề “không thể hiểu được” (tức là không thể hiểu được) mà họ thường đề cập đến là giáo lý Phật giáo.

tài liệu tham khảo:

– doanh nghiệp phân biệt sáu cơ sở; kinh ví dụ con cầy; sáu bộ kinh thanh tịnh (kinh trung bộ).

– Từ điển Phật học – tác giả doan trung with (nxb.tp.hcm-2006)

– tạp chí nghiên cứu phật giáo số. 5/1997.

– bài viết: vị trí của đạo phật trong triết học ở các nước thống nhất hiện nay của giáo sư-tiến sĩ: nguyễn huân liễn (bài tham luận được coi là một đề tài khoa học được trình bày tại chùa giác ngộ, p.3 – quận 10- tp. hcm – xuất bản trong tu (dpnn) ngày 9 tháng 8 năm 2017).

Trả lời

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *