cảm hứng nhân đạo là gì?
Cảm hứng nhân đạo là cảm hứng về tình người trong từng thời đại. cốt lõi của cảm hứng nhân đạo là tình thương, lòng nhân ái đối với con người. bản chất của cảm hứng nhân đạo là tấm lòng của con người.
trong một tác phẩm giàu cảm hứng nhân đạo, khi thấy được sự ngợi ca những phẩm chất cao đẹp của con người với con người, chúng ta phải đồng cảm, thương cảm với những số phận bi thảm bị các thế lực thù địch chà đạp, lên án, tố cáo, đồng thời chúng ta phải thuận theo nguyện vọng và ước mơ của mọi người.
chủ nghĩa nhân văn (tiếng Anh: humansm), còn được gọi là chủ nghĩa nhân văn, là tổng thể các ý tưởng, quan điểm, tình cảm và các giá trị đánh giá con người như trí tuệ, trí tuệ, tình cảm, phẩm giá, sức mạnh, vẻ đẹp.
chủ nghĩa nhân văn không phải là một khái niệm đạo đức đơn thuần, mà còn bao gồm cách nhìn và đánh giá con người ở nhiều khía cạnh (vị trí, vai trò, năng lực, bản chất, v.v.) trong mối quan hệ với tự nhiên, xã hội và những con người khác.
thế giới được sáng tạo trong văn học và văn học, nghệ thuật từ xa xưa là thế giới mà con người luôn đấu tranh chống lại mọi thế lực thù địch luôn xuất hiện dưới mọi hình thức, để khẳng định mình, khẳng định mình, khẳng định sức mạnh của mình. và sức mạnh của anh ấy, đồng thời thể hiện khát vọng làm người mạnh mẽ và cao cả của anh ấy.
tình yêu và sự ưu ái đối với con người và địa vị của họ luôn là mối quan tâm chính của các nhà văn và nghệ sĩ trong cảm hứng sáng tạo nghệ thuật.
biểu tượng của chủ nghĩa nhân văn
Biểu hiện của chủ nghĩa nhân đạo rất đa dạng, bao gồm tất cả những tư tưởng, tầm nhìn đề cao giá trị con người, nhưng trong văn học có thể phân biệt bốn biểu hiện chính, đó là: cảm thông, thấu hiểu cho số phận con người; khám phá và tôn vinh vẻ đẹp của con người; tố cáo và phê phán những thế lực chà đạp con người; ấp ủ ước mơ của mọi người hoặc mở ra tương lai tươi sáng cho mọi người.
1. cái gì cũng cảm thông, xót thương cho số phận đau khổ của con người
Chủ nghĩa nhân văn trước hết bắt đầu bằng tình yêu thương con người, cốt lõi là tấm lòng nhân ái của nhà văn. balzac đã từng nói: “nhà văn là người thư kí trung thành của thời đại”, nam cao nói: “sống trước rồi mới viết, hoà mình vào cuộc sống của quần chúng”, enxa triole: “nhà văn là người cho máu”. / p>
vâng, quá trình sáng tạo là gian khổ và vinh quang, đòi hỏi mỗi nhà văn phải đổ hết mồ hôi, nước mắt và cả máu của mình, đổ tất cả những giọt máu ấm áp của trái tim mình. để đồng cảm với cuộc sống, mở rộng trái tim để đón nhận những âm vang nhiệt thành của cuộc sống.
hơn ai hết, họ đã khóc với nỗi đau của thời đại, mỉm cười với niềm vui của thời đại và hơn ai hết họ hiểu được những ước mơ nghiêm túc và khát khao cháy bỏng của con người thời đại. mỗi nhà văn, trong quá trình sáng tác, trước hết phải là người “nhân đạo” từ trong cốt lõi “(sekhov).
bởi vì nếu không phải là người nhân đạo, không có tấm lòng yêu thương con người và sẵn sàng hy sinh quên mình vì con người thì làm sao viết được, làm sao có thể như con phượng hoàng rực lửa trong truyền thuyết, đắm mình trong lửa đỏ để tái sinh. của cuộc sống – đó là những tác phẩm thấm đẫm tình người, thấm đẫm tình người, những tác phẩm như hơi thở thời đại, như giọt máu thời gian tuôn chảy trong từng con chữ.
tác phẩm mà mỗi trang sách là một số phận nối dài trước mắt người đọc, mỗi số phận là một tiếng kêu đau thương cho kiếp người, mỗi câu chữ thốt ra đều là nỗi băn khoăn, day dứt. bình tĩnh.
Như vậy, chúng ta thấy rằng, biểu hiện đầu tiên của chủ nghĩa nhân đạo là sự cảm thông, thấu hiểu cho số phận con người. điều này có ý nghĩa giáo dục rất sâu sắc. Như nhà văn Nam Cao đã từng chỉ ra, một tác phẩm văn học chân chính là một tác phẩm văn học làm cho con người “gần người hơn”.
Người đọc tìm đến tác phẩm văn học vì nhiều mục đích, nhưng mục đích lớn nhất vẫn là để thanh lọc tâm hồn, giúp tâm hồn phong phú và trong sạch hơn.
Với những số phận được giao phó cho văn học, họ được sống nhiều hơn, được trải nghiệm nhiều hơn, nhưng trên hết, họ trở nên xúc động hơn, suy tư hơn, họ khóc với nỗi đau của người hàng xóm, để vui với niềm vui của những người thân bên cạnh. văn học giúp trái tim mỗi người nhạy cảm hơn, bao dung hơn, nhân hậu hơn.
Chủ nghĩa nhân đạo không chỉ là những tư tưởng, quan điểm tôn vinh vẻ đẹp của con người, mà trên hết, chủ nghĩa nhân đạo là sự sáng tạo ra vẻ đẹp trong tâm hồn con người, mà là trong tâm hồn con người. trong trường hợp này, đó là người đọc.
Quá trình thanh lọc tâm hồn người đọc này là quá trình tự nhận thức về bản thân, từ sự đồng cảm và lòng trắc ẩn đối với người khác, từ đó bồi đắp và rèn luyện những giá trị trong tâm hồn họ (nhân hậu, nhân ái, nhân ái, nghĩa tình …).
Như vậy, chúng ta thấy, nhờ chủ nghĩa nhân văn, văn học không chỉ phát hiện ra hạt ngọc tiềm ẩn trong tâm hồn con người, mà còn giúp hạt giống ngọt ngào ấy sáng hơn, đẹp hơn, gieo vào tâm hồn mỗi người. ngọc trai sáng, bóng.
>
2. trân trọng và tôn vinh vẻ đẹp của con người
đối tượng phản ánh của văn học là con người, châm ngôn gorky đã từng nói: “văn học là nhân học”, còn với Nguyễn Minh Châu: “cuộc sống và nghệ thuật là hai vòng tròn đồng tâm mà tâm điểm chú ý là con người”. văn học không thể không phản ánh con người. nhưng câu hỏi đặt ra là nó phản ánh con người như thế nào và nó phản ánh con người như thế nào?
Văn học xử lý con người về mặt xã hội, văn học thông qua các mối quan hệ xã hội để xây dựng hình tượng con người với tư cách là nhân cách, nghĩa là con người đạo đức, con người chính trị, con người hài hước, con người hành động, v.v.
nhưng quá trình phản ánh con người này không hề đơn giản, nó rập khuôn, loại bỏ các chi tiết để khái quát hóa trong các định lý, định đề, quy tắc và chuẩn mực như lịch sử, triết học, tôn giáo, đạo đức.
Văn học phản ánh con người cả trực quan và khách quan. một mặt, anh đại diện cho một con người sống động như chính anh đang sống, mặt khác, anh nhìn anh bằng cái nhìn thấm đẫm sự đồng cảm, yêu thương, một cái nhìn. tính nhân văn của người nghệ sĩ.
hình tượng con người trong văn học luôn là sự kết hợp giữa cái chung và cái riêng, cái chung và cái riêng, chủ quan và khách quan, nó là hình ảnh chủ quan của thế giới khách quan, nó là con người sống động của hiện thực dưới sự cái nhìn của người nghệ sĩ. cái nhìn đầy cảm xúc và thấu hiểu.
nhưng điểm khác biệt cơ bản nhất giữa văn học và các môn khoa học xã hội khác là sự phản ánh con người dưới góc độ cái đẹp. dovtopsky từng nói: “sắc đẹp cứu chuộc thế giới”. Đúng vậy, muôn đời, văn học nghệ thuật chân chính là thứ văn học “làm rạng danh con người”.
Văn học là sản phẩm của quá trình sáng tạo theo quy luật cái đẹp, con người trong văn học cũng là con người được sáng tạo theo quy luật cái đẹp. con người bước vào văn học với nhiều vẻ đẹp khác nhau.
đó có thể là vẻ đẹp kiều diễm của người phụ nữ “hoa ghen thua thắm, liễu hờn kém xanh”, có thể là một mỹ nhân tài sắc vẹn toàn như vũ nữ như tôi khi xây dựng nên hòn vọng phu, cũng có thể là “viên gạch điều khiển anh đã như tướng quân làm chủ ”, anh ta có thể xây dựng các công trình để cạnh tranh với công chúng.
nhưng trong văn học, cái quan trọng nhất vẫn là vẻ đẹp tâm hồn con người, nhiệm vụ đầu tiên của văn học vẫn là tìm ra viên ngọc tiềm ẩn trong tâm hồn con người. Quá trình tìm kiếm vẻ đẹp đó đòi hỏi người viết rất nhiều nỗ lực, trí tuệ và tình cảm.
Nghệ sĩ hơn hết phải là những người dấn thân, biết vượt qua những định kiến cố hữu trong con người và xã hội để nhìn mọi người một cách rụt rè.
cao nhân, để khám phá ra khát vọng sống trong đau khổ của mình, đã phải vật lộn với nhân vật của mình trong một cuộc biến đổi đau đớn từ quỷ thành người, để tạo ra những trang viết mãnh liệt như lửa, đồng thời, nhà văn tài năng đó anh ta. cũng phải đạp lên định kiến của mọi người, tránh xa những người coi anh như một con quỷ, coi anh như một con người.
Chỉ ở góc độ này, nhà văn mới có thể đau đớn đến tận cùng với nỗi đau của nhân vật, từ cuối bi kịch mới chắt lọc được một viên ngọc tươi: khát vọng sống, khát vọng sống, lòng nhân ái của một con người.
Có thể nói, quá trình tìm kiếm ngọc trong tâm hồn con người là quá trình khó khăn nhất. bởi vì con người là một thực thể phức tạp, linh hồn con người, là một mảnh đất, vẫn bị bao phủ bởi một lớp sương mù dày đặc.
mọi người không thể hiểu chính họ, vậy làm sao người khác có thể bí mật hiểu họ? Để khám phá vẻ đẹp bên trong của con người, bạn cần có tài năng thực sự.
mỗi nhà văn khi đắm mình vào thế giới tâm hồn sâu thẳm với những biến thái tinh vi và phức tạp, đều phải có sự nhạy cảm thiên bẩm và một trái tim yêu thương cháy bỏng.
đôi mắt của anh ta phải là đôi mắt tinh tường, đôi mắt thấu hiểu, đôi mắt hiểu biết, anh ta phải có thể nhìn thấy từ những biểu hiện bên ngoài nhỏ nhất của con người những biến động tinh vi của tâm hồn bên trong, và anh ta phải biết cách đưa những phát hiện của mình một góc nhìn tương xứng. . hình thức: ngôn ngữ nghệ thuật sinh động và hấp dẫn.
3. tố cáo, phê phán những thế lực chà đạp con người
văn học đồng cảm, thương tiếc số phận con người, văn học tôn trọng và tôn vinh vẻ đẹp của con người, văn học cũng tố cáo, phê phán những thế lực chà đạp con người.
p>
quá trình cảm thông và quý trọng con người và quá trình tố cáo và phê phán những thế lực chà đạp con người là hai mặt của cùng một đồng tiền, luôn song hành với nhau, trong mối quan hệ biện chứng.
Càng thương cảm, xót xa cho số phận con người bao nhiêu thì càng căm ghét, căm phẫn những thế lực bắt bớ con người bấy nhiêu. chúng ta càng trân trọng và yêu quý vẻ đẹp của con người bao nhiêu thì chúng ta càng coi thường và ghê tởm những thế lực chà đạp, làm hoen ố vẻ đẹp đó.
Chính vì vậy, chủ nghĩa nhân văn không chỉ là yêu quý và trân trọng vẻ đẹp của con người mà còn muốn biến văn học thành vũ khí để đấu tranh cho quyền sống của con người.
Một khía cạnh không thể thiếu của chủ nghĩa nhân đạo là tính chiến đấu cao của nó. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã từng nhắc nhở các văn nghệ sĩ: “Văn hóa nghệ thuật cũng là một mặt trận / Anh em là chiến sĩ trên mặt trận đó”.
phương thức đấu tranh trong văn học là phản ánh, tiếp xúc và tố cáo. đỉnh cao của tính chiến đấu là bút pháp trào phúng. nhưng văn học, ngay cả khi nó không được sáng tác theo phong cách châm biếm, vẫn có tính chiến đấu nhất định.
sự phản ánh của văn học có ý nghĩa riêng của nó. văn học phản ánh cái xấu, cái độc ác, cái phi nhân, cái giả dối, luôn so sánh nó với cái tốt, cái lương thiện, cái nhân hậu, cái chân thật. Nhà văn Nguyễn Khải từng nói: “Văn chương có quyền, nhưng không chỉ miêu tả những điều xấu xa, ghê tởm và hèn nhát”.
thỏi nam châm thu hút mọi thế hệ cầm bút chính là cái cao cả, cái thiện, cái chung thủy ”. Văn học nghệ thuật, dù trong văn học dân gian hay văn học hiện đại, luôn có sự phản ánh tốt – xấu, tốt – xấu, đúng – sai trong sự so sánh, đối chiếu này, cũng như tốt – xấu, tốt – xấu, thật – giả trong cuộc sống. họ luôn song hành, quyết liệt đấu tranh để loại bỏ nhau.
nhiệm vụ muôn thuở của văn học là làm nổi bật cái xấu, phát hiện cái xấu để mọi người nhận ra, và từng chút một hình thành trong con người lòng căm thù cái xấu, cái hèn, cái dối. Quá trình này luôn phải diễn ra song song với quá trình tôn vinh cái tốt, ghét cái xấu, cái hèn và cái sai cũng là đánh giá cao và đánh giá cái tốt, cái cao cả và chân chính.
Để làm được điều này, người nghệ sĩ cũng phải là một người lính và yêu cầu đầu tiên của anh ta là lòng dũng cảm. Là một nhà văn lớn, nhà phê bình duy nhất của nền văn học Xô Viết, và cũng là một người có số phận đau thương, Mikhail Bulgakhov từng nghĩ, một nhà văn không có quyền im lặng.
một nhà văn đổ giọt máu ấm của mình vào lòng yêu thương con người, để trái tim lắng đọng với những đau thương của cuộc đời, cô ấy là một nhà văn không thể im lặng trước cường quyền, bạo lực, tàn ác, cô ấy là một nhà văn không thể thờ ơ nhìn cảnh người ta bị chà đạp, bị đánh đập, một nhà văn không thể im lặng trước những giọt nước mắt của người ta!
Ngôn từ là vũ khí, trí tuệ là vũ khí, tình cảm chân chính là vũ khí: các nhà văn chân chính đã chiến đấu vì cuộc sống của nhân dân trong nhiều thế kỷ. Họ là những nhà nhân đạo vĩ đại, những nghệ sĩ vĩ đại.
4. thấu hiểu, nuôi dưỡng ước mơ của con người
Theo quy luật của quá trình sáng tạo, đích đến cuối cùng của văn học luôn là sự sống. Tác giả đã từng nói: “Cuộc đời là điểm bắt đầu và cũng là điểm kết thúc của văn học”. tác phẩm không kết thúc khi trang ánh sáng khép lại, mà là khi tác phẩm mở ra, bước vào đời, để cải thiện cuộc sống.
Một tác phẩm nghệ thuật có tuổi thọ cao phải là một tác phẩm mang lại lợi ích cho xã hội. cái gì là hữu ích? đó là việc làm nên con người tốt hơn, cần thông qua mỗi người “dùng vật chất để đánh đổ vật chất”, để cải thiện và làm cho cuộc sống trở nên tươi đẹp hơn, đáng sống hơn.
Để hoàn thành nhiệm vụ cao cả của văn học, trước hết mỗi nhà văn phải là nhà tư tưởng. Đỉnh cao nhất của mỗi tác phẩm là thông điệp tư tưởng của nó.
Thông qua tác phẩm của mình, người viết phải bày tỏ quan điểm của mình về một vấn đề nào đó trong cuộc sống, đưa ra cách giải quyết, hoặc chí ít là gợi mở những vấn đề cấp bách của xã hội và gây ám ảnh cho người đọc, cuốn người đọc vào quá trình suy nghĩ của người viết, đối thoại với nhà văn để xây dựng cuộc sống tốt đẹp hơn.
nhà văn người Ý claudio magrid đã từng nói: “văn học không cần những câu trả lời mà nhà văn đưa ra, văn học chỉ cần những câu hỏi do nhà văn đặt ra, và những câu hỏi này luôn bao quát hơn bất kỳ câu trả lời chi tiết, tỉ mỉ nào”.
Giải pháp của anh ấy cho những vấn đề trong cuộc sống không gì trực quan hơn là thông qua tác phẩm, thông qua số phận của nhân vật. Đó là khi văn học có những nhân vật có tương lai tươi sáng, có hành động dũng cảm thay đổi nghịch cảnh, tự cứu mình.
nền văn học nước ta đã có cả một thời kỳ sáng tác theo hướng hiện thực xã hội chủ nghĩa với m, m … là những nhân vật tiêu biểu của phương pháp hiện thực xã hội chủ nghĩa. những con người hoặc có những hành động táo bạo để thay đổi số phận, hoặc có ý chí thức tỉnh cần thiết. chắc chắn sẽ dẫn đến những hành động thay đổi vận mệnh.
Chúng ta cũng có một thời kỳ văn học mang khuynh hướng sử thi và cảm hứng lãng mạn cách mạng với tầm nhìn lạc quan hướng tới tương lai tươi sáng mang âm hưởng sử thi mạnh mẽ của thời đại.
Những nhân vật có cái nhìn tươi sáng, rộng mở về tương lai là minh chứng cụ thể nhất cho tầm nhìn của chủ nghĩa nhân đạo: cái nhìn lạc quan hướng tới tương lai, hướng tới cuộc sống mới. sống trong sáng, đầy hứa hẹn.
Tuy nhiên, văn học không bao giờ là lời kể của người nói, nhân vật luôn có những vận động nội tại riêng, bị chi phối bởi quy luật khách quan của thời gian. , bị chi phối bởi chuyển động khách quan của câu chuyện.
Nói cách khác, có những nhân vật, trong cuộc đời của họ, không bao giờ có thể kết thúc bằng một tương lai tươi sáng. solokhov không muốn gregori ở “sông đông hiền hòa” có số phận bi thảm đau khổ đến tận cùng, mất đi tất cả, gia đình, tính mạng và hoàn toàn mất trắng, nhưng thời đại của nhân vật không cho phép anh có thêm một chiếc két sắt.
cái gọi là chủ nghĩa hiện thực chặt chẽ không nằm ở việc đẩy nhân vật đến tận cùng bi kịch, tạo cho nhân vật một kết cục vô cùng bi thảm và đau đớn, mà nằm ở chỗ, bởi vì nhà văn tôn trọng sự vận động của hiện thực khách quan, vì vậy không thể không phản ánh chính xác (kể cả khi dẫn đến những bi kịch đau lòng).
nhưng câu hỏi đặt ra là, khi theo chủ nghĩa hiện thực chặt chẽ như vậy, liệu nhà văn đó có thể trở thành một nhà nhân đạo không?
Khi hoàn cảnh không mang lại cho nhân vật một tương lai tươi sáng, một cái nhìn lạc quan về tương lai, thì nhà văn vẫn phải có cái nhìn về tương lai, khao khát thay đổi.
là sự khám phá ước mơ của mọi người và kêu gọi thay đổi để mọi người có thể thực hiện ước mơ của mình, để sống trọn vẹn nhất. bi kịch của sự vỡ mộng và bi kịch tinh thần của mái ấm gia đình “lãnh đạo” của nam cao là một bi kịch không có hậu.
<3 sẽ diễn ra theo vòng xoáy, lặp lại và ngày càng tồi tệ hơn, mà đỉnh điểm là cái chết của anh ta: sự băng hoại nhân cách cuối cùng.
Chủ nghĩa hiện thực phê phán không thể khắc phục được những hạn chế về mặt nhận thức của chính thời đại, nó coi con người là nạn nhân của hoàn cảnh, đó là lý do tại sao con người luôn trì trệ và bi đát. Nhưng điều đó không có nghĩa là những người đàn ông cao lớn không nhân đạo.
tính nhân văn của nhà văn thể hiện ở việc nhà văn đã phát hiện ra những ước mơ tốt đẹp của nhà văn dành cho cô, đó là khát vọng sáng tạo nghệ thuật chân chính từ một nghệ sĩ đam mê, cô muốn có một tác phẩm “vượt qua mọi biên giới và giới hạn”. để trở thành một công việc chung cho nhân loại.
tính nhân văn của Người cao cả còn ở thông điệp âm vang với cuộc sống: cuộc sống cần phải thay đổi, để mỗi người có hoài bão và ước mơ sống đúng với hoài bão và ước mơ của mình, sống và cống hiến, sống để hãy là người có ích cho xã hội chứ đừng làm người đau đớn, sống mòn mỏi, ngày ngày chứng kiến ước mơ của mình vụn vỡ, rồi tự dẫn mình đến tha hóa, trở thành kẻ xấu, làm khổ người thân.
vì vậy, dù nhà văn theo quan điểm nào, dù chịu ảnh hưởng thơ ca nào, liệu anh ta có thể mang lại tương lai tươi sáng cho nhân vật hay không, miễn là anh ta còn sống. khát vọng hướng tới tương lai, miễn là bản thân có tầm nhìn hướng tới tương lai và đấu tranh cho tương lai tươi sáng tốt đẹp của con người, đó là tư tưởng nhân đạo.
nguồn tham khảo: https://www.facebook.com/vanhocvanhungcamnhan/posts/1486315768178056/
thực tế, blog chuyên nghiệp