LÊ LỢI – VỊ ANH HÙNG GIẢI PHÓNG DÂN TỘC

Nếu như chiến thắng của Ngô Quan trên sông Baidang năm 938 đã chấm dứt thời kỳ 1000 năm mất nước và mở ra một thời kỳ độc lập mới của dân tộc, thì cuộc nổi dậy của Lí Lai và Lâm Sơn là thắng lợi và kết thúc sau 20 năm. Vào năm nhà Minh xâm lược, nền độc lập lâu dài của đất nước được khôi phục và một thời kỳ xây dựng mới bắt đầu …

le loi sinh ngày 10 tháng 9 năm 1385 (6-8 năm Ất Sửu) tại Lim Shan (ke cham) thuộc huyện Thọ Xuân, tỉnh Thanh Hóa ngày nay, trong một gia đình “đời đời làm quân. thủ lĩnh “một phương”. Ông là con út của Lê Khoáng và trinh thị ngọc hương (anh cả tên là Trường và anh thứ hai là tru), nối nghiệp cha làm chúa trại Lâm Sơn. quân đồng minh chiếm nước, ông gom hết dũng khí đánh giặc, quân nhà Minh nghe tiếng bèn xin làm quan nhưng ông không bỏ, ông nói: “Làm con thì nên tiêu. của thời gian, trở nên nổi tiếng, và luôn có danh tiếng tốt. Tại sao lại chấp nhận làm nô lệ? Khi Lý Liên Kiệt 21 tuổi, cũng là năm nhà Minh dẫn đội quân 80 vạn sang xâm lược Việt Nam, sau thất bại của cuộc chiến Chống sông nước Đà Việt Nam rơi vào xiềng xích tàn khốc của quân xâm lược nhà Minh trước đó. cảnh đất nước bị quân thù tàn phá, tàn phá, nung nấu quyết tâm đánh đuổi chúng ra khỏi Tổ quốc.

Đầu năm 1416, tại vùng rừng núi Thanh Hóa, Lí Lai cùng 18 người bạn chí cốt, với tấm lòng cứu nước, thề đánh giặc, bảo vệ Tổ quốc. Đó là hội thề đã được ghi vào lịch sử.

Xilelai nêu cao ngọn cờ sự nghiệp của mình, chiêu mộ nhân tài và các chuyến đi, thu hút các anh hùng từ mọi hướng. Đất Đồi Rừng trở thành nơi nghĩa tình. Có nhiều tầng lớp xã hội, dân tộc khác nhau, có những đại diện tiêu biểu như: Nguyên trai, trần nguyễn, nguyễn lệ, nguyễn xiển, lê lai, cẩm lệ, xã kha tham … Sau một thời gian chuẩn bị, bắt đầu từ năm 1418 Lý xuất thân được gọi là vua Bình, ông truyền đạo khắp nơi, kêu gọi nhân dân vùng lên chống giặc, cứu nước. le loi là linh hồn, thủ lĩnh tối cao của cuộc khởi nghĩa.

Cuộc nổi dậy Linshan thắng lợi từ đầu đến cuối (tháng 12 năm 1427), và qua các giai đoạn phát triển, chiến lược và chiến thuật của nó đã chứng minh rằng Lele là một con người thiên tài. Tài năng, nhân cách phi thường, chỉ thấy ở những người lãnh đạo mở đường, khai sáng. Nếu như chiến thắng của Ngô Quân trên sông Baidang năm 938 đã chấm dứt thời kỳ 1000 năm mất nước và mở ra một thời kỳ độc lập mới của dân tộc, thì cuộc nổi dậy của Lý Lai và Lâm Sơn là thắng lợi và chấm dứt 20 năm thống trị của họ. Quân xâm lược nhà Minh đã khôi phục lại nền độc lập lâu dài của đất nước và mở ra một thời kỳ xây dựng mới. Không trục lợi, không nổi dậy Linshan. Nhưng Lý Lai không chỉ là người nhen nhóm và sáng tạo nên cuộc Khởi nghĩa Lâm Sơn mà còn là một nhà lãnh đạo chiến lược kiệt xuất. Nét độc đáo, mới mẻ trong chỉ đạo kháng Minh của Lí Lai là dựa vào nhân dân để thực hiện chiến tranh giải phóng dân tộc. Trong toàn bộ lực lượng khởi nghĩa và quyền chỉ huy của cuộc khởi nghĩa, chúng ta có thể thấy rõ đặc điểm phổ biến rộng rãi của nó, đây là những đặc điểm nổi bật mà các cuộc khởi nghĩa chống quân Minh khác trước đây không có được. Dựa vào sức mạnh của nhân dân, đoàn kết, tập hợp mọi lực lượng xã hội trong một tổ chức chiến đấu, rồi khởi nghĩa từ một nơi, lấy núi rừng làm căn cứ địa, phát triển rộng khắp thành các cuộc chiến tranh, đấu tranh giải phóng dân tộc trên phạm vi cả nước. Đây là một đóng góp sáng tạo to lớn của Le loi và những người đàn ông của ông, để lại một kinh nghiệm lịch sử quý giá.

Vừa là nhà tổ chức chính trị, quân sự, vừa là chỉ huy chiến lược, ông còn là một vị tướng sáng suốt, cương nghị và trung thành, áp dụng phương pháp “vây thành, diệt viện” theo lý luận quân sự. Anh trầm ngâm: Bao vây một thành phố là hạ sách. Nếu ta năm này qua năm khác tấn công và bảo vệ thành mà không đánh được thì quân ta mỏi mệt, viện binh của địch lại kéo đến, ta đều bị tấn công từ trước và sau, đây là con đường hiểm trở. . Tiêu hao bằng cách tăng máu, tích trữ khí để chờ viện binh đến. Quân tiếp viện bị tiêu diệt và tất cả phải đầu hàng. “Chiến lược“ vây thành, diệt viện ”của Lê Lai kết hợp với chủ trương“ kiếm, phạt hai lòng ”của Lê Lai tạo nên một phương thức uy hiếp, chia rẽ và nhử địch có một không hai.

Cuối năm 1427, cuộc vây hãm Dongguan Wangtong và tiêu diệt viện binh địch của Xiongjiang Zhilang là kết quả thắng lợi của tư tưởng quân sự của Lê Lai-Nuan Lai. Năm 1428, Lý Lai đánh đuổi tất cả quân xâm lược về nước, lên ngôi hoàng đế và thành lập nhà Lý. le loi mất trước 5 năm (1433), táng ở ngự lang, lam sơn, tên chùa là thái tổ.

Trong thời kỳ đầu lập quốc, Lý Liên Kiệt đã có nhiều nỗ lực về chính trị đối nội và ngoại giao để khôi phục, củng cố và phát triển đất nước bằng cách tổ chức, chấn chỉnh thể chế chính quyền và các mặt khác. Từ Trung ương đến địa phương đã đưa ra nhiều chính sách, biện pháp hữu hiệu nhằm khôi phục sản xuất nông nghiệp, ổn định đời sống xã hội. le loi cũng quan tâm đến việc phát triển văn hóa, giáo dục và đào tạo nhân tài. Năm 1428, khi lên ngôi vua, năm sau (năm Thuận Đức thứ 2, 1429), Lê Lai mở khoa thi Minh Khánh. Năm 1431, chữ Hoành được khảo. Năm 1433, le loi tự mình tham gia các cuộc thi văn học và sách. Hơn nữa, vào năm 1426, khi Lý thị vây thành Đông Quan, ông cũng đã tổ chức một kỳ thi đặc biệt, và đã đậu 32 người trong đó có Đào Công, một nhà ngoại giao xuất sắc thời Lý. Tuy nhiên, nhiệm vụ chính trị lớn nhất phải giải quyết trước hết sau khi đất nước được giải phóng là củng cố và giữ vững nền độc lập, thống nhất của Tổ quốc. Về mặt này, le loi đã đạt được hai điều lịch sử. Đầu tiên, ông đã thành công trong cuộc đấu tranh ngoại giao và thiết lập quan hệ bình thường giữa nhà Lê và nhà Minh. Thứ hai, Lý Lai kiên quyết trước tiên đập tan một số âm mưu và bạo loạn của quân ngụy, điển hình là đèo Menglesha Khan ở Lai Châu. Trong một bài thơ năm 1431 trên vách núi pu huổi cho (bên sông lớn Lai Châu) vào lúc đánh bại đèo mèo khan, le loi bày tỏ ý chí bảo vệ sự thống nhất của đất nước:

Vùng đất nguy hiểm không còn nữa,

Núi và sông vào cùng một bản đồ.

Bài thơ được khắc trên đá

Bảo vệ phía tây của đất nước chúng tôi.

Sau bài thơ trên, le loi còn viết bài thơ thứ hai, khắc trên vách núi hùng vĩ cạnh chợ, bình yên.

Lin Lei trị vì trong 5 năm và đã đạt được nhiều thành tựu to lớn. Toàn thư sử ký của Daye Việt chép: “Nhà vua hăng hái khởi nghĩa quân đánh tan quân xâm lược nhà Minh, thiên hạ đã định, khi lên ngôi vua đã ban hành quy tắc, chế định, làm lễ nhạc, mở khoa thi, lập Thị vệ, đứng gác, làm quan, lập phủ huyện, thu sách, khai trường đều là những dự định, sự nghiệp lớn.

Để lại một bình luận

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *